Đề xuất thí điểm mô hình một cấp chính quyền đô thị tại Đà Nẵng

Theo mô hình này, chính quyền TP. Đà Nẵng được tổ chức thành một cấp chính quyền địa phương gồm hội đồng nhân dân (HĐND) và uỷ ban nhân dân (UBND). Cấp quận và phường không tổ chức HĐND, mà chỉ tổ chức cơ quan hành chính là UBND.
MY ANH
24, Tháng 04, 2020 | 11:32

Theo mô hình này, chính quyền TP. Đà Nẵng được tổ chức thành một cấp chính quyền địa phương gồm hội đồng nhân dân (HĐND) và uỷ ban nhân dân (UBND). Cấp quận và phường không tổ chức HĐND, mà chỉ tổ chức cơ quan hành chính là UBND.

bo truong bo ke hoach va dau tu nguyen chi dung (1) okzzz

 

Sáng 24/4, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho ý kiến dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về phát triển thành phố Đà Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045. UBTVQH khi xem xét bổ sung nội dung này vào dự kiến chương trình nghị sự kỳ họp thứ 9 của Quốc hội, đã đề nghị sửa tên thành dự thảo nghị quyết về cơ chế đặc thù về tài chính và chính quyền đô thị cho phù hợp thẩm quyền của Quốc hội.

Trình bày về vấn đề này tại phiên họp, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, Chính phủ đề xuất cho phép thí điểm tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Đà Nẵng theo hướng xây dựng mô hình tổ chức một cấp chính quyền địa phương (ở cấp thành phố) và 2 cấp hành chính (ở quận, phường).

Cụ thể, với mô hình này, chính quyền TP Đà Nẵng được tổ chức thành một cấp chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND. Cấp quận và phường không tổ chức HĐND mà chỉ tổ chức cơ quan hành chính là UBND quận và UBND phường.

Do không tổ chức HĐND ở quận, phường nên một số nhiệm vụ của HĐND quận và phường được chuyển lên cho HĐND thành phố; một số nhiệm của HĐND phường được chuyển lên cho UBND quận. Với mô hình này thì chỉ tổ chức một cấp ngân sách thành phố, theo đó quận và phường chỉ là một đơn vị dự toán ngân sách của thành phố thay vì 3 cấp ngân sách thành phố, quận, phường như trước đây.

“Mô hình trên phù hợp với Hiến pháp, phù hợp với đặc điểm, tính chất của quản lý đô thị trên địa bàn quản lý nhỏ gọn, số lượng đơn vị hành chính cấp quận ít (Đà Nẵng chỉ có 6 quận) nếu so sánh với Hà Nội và TPHCM”, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh.

Báo cáo của Chính phủ cũng nêu rõ, đây là mô hình mà TP Đà Nẵng đã thực hiện thí điểm trong giai đoạn 2009-2016 và tổng kết thí điểm cho thấy công tác chỉ đạo điều hành quản lý hành chính của UBND từ cấp thành phố đến quận, phường được xuyên suốt, nâng cao tính chủ động của cơ quan hành chính và trách nhiệm của người đứng đầu, tạo được sự đồng thuận của cán bộ, công chức, viên chức và người dân thành phố.

Hiện nay đã có một số thành phố trực thuộc trung ương được Bộ Chính trị đồng ý về chủ trương thí điểm xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù và mô hình tổ chức chính quyền đô thị, như Hà Nội, TPHCM, Đà Nẵng, Hải Phòng.

Trình bày thêm trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, để thành phố Đà Nẵng phát triển, trong thời gian qua Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều Nghị quyết, cơ chế, chính sách đặc thù cho thành phố Đà Nẵng.

Tuy nhiên, tổng kết 20 năm xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng và 15 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 16 tháng 10 năm 2003 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã chỉ ra rằng trước bối cảnh thách thức của yêu cầu phát triển nhanh và bền vững của quá trình hội nhập cạnh tranh quốc tế thì còn có một số hạn chế như cơ chế, chính sách đặc thù cho Đà Nẵng chậm được ban hành, một số rào cản, vướng mắc chưa được tháo gỡ kịp thời.

Các thách thức về công tác quản lý như: Quy hoạch đô thị và đất đai; nguồn vốn đầu tư phát triển chưa đáp ứng nhu cầu; thu hút đầu tư nước ngoài còn hạn chế; kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thiếu tính đồng bộ kết nối; ô nhiễm môi trường gia tăng; sự không bền vững về chất lượng nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; sự liên kết hợp tác chưa hiệu quả của thành phố với các địa phương trong vùng,… đã và đang ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của Thành phố.

Vì vậy, việc ban hành Nghị quyết của Quốc hội thí điểm một số cơ chế, chính sách trong một số lĩnh vực khác so với một số luật hiện hành cho phù hợp với yêu cầu phát triển, quy mô kinh tế - xã hội, trình độ và yêu cầu quản lý kinh tế - xã hội đối với thành phố Đà Nẵng là cần thiết để thành phố Đà Nẵng có thêm cơ hội huy động nguồn lực, tập trung đầu tư, tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn, xứng đáng hơn nữa là đầu tàu, động lực dẫn dắt phát triển kinh tế - xã hội miền Trung - Tây Nguyên, có sức thu hút và lan tỏa lớn ở vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đóng góp lớn hơn vào sự phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách chung của cả nước như mục tiêu tại Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đã Nẵng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đặt ra.

Về nội dung cơ bản của dự thảo Nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, dự thảo Nghị quyết quy định thí điểm một số cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực quản lý về quy hoạch, huy động vốn đầu tư, tài chính - ngân sách, hỗ trợ phát triển khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát triển và thí điểm mô hình chính quyền đô thị đối với thành phố Đà Nẵng (Điều 1). Đối tượng điều chỉnh gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức cá nhân có liên quan (Điều 2). Đồng thời, bổ sung giải thích từ ngữ về “Khu hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo” do chưa có định nghĩa theo quy định hiện hành (Điều 3).

Bên cạnh đó, dự thảo Nghị quyết quy định 04 nhóm chính sách đặc thù thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng khác với quy định hiện hành hoặc chưa có quy định.

Trên cơ sở hồ sơ dự thảo Nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng nhấn mạnh, Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét và cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết để tiếp tục hoàn thiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XIV theo quy trình một kỳ họp.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ