'Cửa sáng' của cổ phiếu dầu khí

Nhàđầutư
Cổ phiếu dầu khí được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng trong dài hạn với loạt tác động tích cực từ giá dầu neo cao, kỳ vọng FID đại dự án khí-điện Lô B – Ô Môn phê duyệt vào cuối năm 2023, Luật Dầu khí (sửa đổi) mới...
HỮU BẬT
14, Tháng 11, 2023 | 13:58

Nhàđầutư
Cổ phiếu dầu khí được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng trong dài hạn với loạt tác động tích cực từ giá dầu neo cao, kỳ vọng FID đại dự án khí-điện Lô B – Ô Môn phê duyệt vào cuối năm 2023, Luật Dầu khí (sửa đổi) mới...

Empty

Dù đã tăng mạnh trong năm 2023, song tiềm năng của cổ phiếu dầu khí vẫn được đánh giá cao. Ảnh minh họa: Internet.

Mùa BCTC "trái chiều" của nhóm dầu khí

Thống kê của Nhadautu.vn cho thấy, lãi ròng của 12 doanh nghiệp dầu khí lớn đang niêm yết trên sàn chứng khoán trong quý III/2023 tăng 86,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo nhiều chuyên gia, nguyên nhân là bởi crack spread (hiểu là: sự chênh lệch giữa giá của một thùng dầu thô và sản phẩm hóa dầu) tăng do nguồn cung toàn cầu thắt chặt và căng thẳng ở Trung Đông, và thị trường phân phối xăng dầu trong nước trở lại hoạt động bình thường trong 9 tháng đầu năm 2023.

Dữ liệu của VNDirect nhấn mạnh biên lợi nhuận gộp toàn nhóm dầu khí đạt 6,6% trong quý III/2023, cao hơn so với mức 5,3% của quý II/2022. Đáng chú ý, đây cũng cũng là con số cao nhất lĩnh vực này đạt được tính từ quý IV/2021 (6,9%).  

NDT - KQKD DN Dau khi

 

Nhóm trung nguồn gây ấn tượng khi nhiều doanh nghiệp dù ghi nhận doanh thu quý III/2023 suy giảm, song lợi nhuận tăng bằng lần, hoặc thậm chí có lãi trong khi cùng kỳ năm ngoái lỗ. Cụ thể, thống kê cho thấy doanh thu nhóm này trong quý III/2023 đều đồng loạt giảm từ 1,74% đến 42,08%, song biên lợi nhuận gộp ở mức rất cao đã hỗ trợ tích cực cho lợi nhuận (với ảnh hưởng tích cực từ chủ yếu từ crack spread quý III/2023 tốt hơn so với cùng kỳ năm ngoái như đã đề cập).  

CTCP Lọc hóa dầu Bình Sơn (UPCOM: BSR) đứng đầu danh sách với lãi ròng quý III/2023 đạt 3.235 tỷ đồng, tăng 611% so với cùng kỳ năm ngoái. Luỹ kế 9 tháng, BSR đạt 105.490 tỷ đồng doanh thu và lãi ròng 6.186 tỷ đồng, lần lượt giảm 17% và giảm 52% so với mức nền cao kỷ lục của cùng kỳ năm trước, và hoàn thành 110% mục tiêu doanh thu và 380% chỉ tiêu lãi ròng cả năm.

Xếp ở vị trí thứ 2 là Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (HoSE: PLX), dù doanh thu quý III/2023 giảm gần 2% so với cùng kỳ xuống 72.414 tỷ đồng, song nhờ biên lợi nhuận gộp đạt 5,51% (cao hơn quý III/2022 là 3,95%), nên lãi gộp đạt gần 3.780 tỷ đồng, tăng 35%. Cùng với đó, doanh thu hoạt động tài chính tăng gấp 4 lần đạt 1.118 tỷ đồng (chủ yếu lợi nhuận từ thoái vốn tại PGBank), lãi ròng PLX tăng 284,3% đạt 729,4 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, doanh thu thuần PLX giảm 9% xuống 205.596 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế cao gấp 4,6 lần cùng kỳ năm 2022 lên 2.288 tỷ đồng.

Tổng Công ty Dầu Việt Nam – CTCP (UPCOM: OIL), CTCP Vật tư - Xăng dầu (HOSE: COM) và Tổng Công ty Thương mại Xuất nhập khẩu Thanh Lễ - CTCP (UpCOM: TLP) cũng báo lãi ròng quý III/2023 "đảo chiều" sang mức dương trong khi cùng kỳ năm ngoái lỗ lớn.

Khác với trung nguồn, nhóm thượng nguồn lại có mùa BCTC quý III/2023 với kết quả kinh doanh trái chiều.

Tổng CTCP Khoan và Dịch vụ Khoan Dầu khí (HoSE: PVD) báo doanh thu thuần quý III/2023 đạt 1.381 tỷ đồng, tăng hơn 11% so với cùng kỳ năm ngoái. Với việc giá vốn giảm được hơn 3% xuống còn 1.085,2 tỷ đồng, qua đó lợi nhuận gộp doanh nghiệp đạt 295,9 tỷ đồng, tăng 152% so với cùng kỳ. Trừ đi các chi phí và thuế, công ty báo lãi 132,9 tỷ đồng, trong khi quý III/2022 lỗ hơn 25,6 tỷ đồng.

Lũy kế 9 tháng năm 2023, doanh thu công ty tăng nhẹ đạt 4.033,3 tỷ đồng, lãi ròng 343,9 tỷ đồng, tăng mạnh so với mức lỗ 201,7 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm 2022.

Trong khi đó, Tổng CTCP Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam (HNX: PVS) dù báo doanh thu quý III/2023 tăng 19% lên 4.175,5 ỷ đồng, nhưng với biên lợi nhuận gộp trong kỳ chỉ là 4,3% (quý III/2022 là 5,8%), dẫn đến lợi nhuận gộp công ty còn 180,6 tỷ đồng. Cùng với đó, với việc chi phí đồng loạt tăng mạnh, công ty báo lãi ròng 143,6 tỷ đồng, giảm 26%. Luỹ kế 9 tháng, PVS đạt 12.591 tỷ đồng doanh thu thuần, tăng gần 14% so với cùng kỳ năm trước; lãi sau thuế 606,2 tỷ đồng, tăng 33,6% so với cùng kỳ.

Đáng chú ý, không một doanh nghiệp nào thuộc nhóm hạ nguồn báo lãi ròng quý III/2023 tăng trưởng. Tổng Công ty Khí Việt Nam - CTCP (HoSE: GAS) báo lãi ròng đạt 2.404 tỷ đồng, giảm 22,2% so với cùng kỳ năm ngoái; Tổng CTCP Vận tải Dầu khí (HoSE: PVT) ghi nhận lãi 321 tỷ đồng, giảm 68,2%. Tương tự, lợi nhuận sau thuế của CTCP Vận tải Dầu khí Thái Bình Dương (HoSE: PVP) và CTCP Vận tải và Tiếp vận Phương Đông Việt (UPCOM: PDV) cũng đồng loạt giảm lần lượt 68,2% và 68,1%.

Trường hợp của PVT và PVP có chút khác biệt. Theo đó, PVT và PVP trong quý III/2023 ghi nhận lãi thuần từ hoạt động kinh doanh tăng trưởng tốt so với cùng kỳ năm ngoái lần lượt đạt 33,5% và 360,5%, song với việc không còn ghi nhận khoản lợi nhuận khác lên đến hàng trăm tỷ đồng, dẫn đến lợi nhuận 2 doanh nghiệp này đều giảm.

Triển vọng dài hạn của cổ phiếu dầu khí

Tính từ đầu năm đến nay (phiên 13/11), nhiều cổ phiếu dầu khí ghi nhận mức tăng trưởng tốt như PVS (+78%), PVD (+53%), BSR (+48,3%), PVT (+15,4%)... trong khi đó GAS giảm nhẹ 3,2%. 

Dù đã tăng mạnh trong năm 2023, song nhiều công ty chứng khoán nhìn nhận dư địa tăng trưởng của các mã dầu khí vẫn còn. 

Theo đó, giá dầu Brent và WTI hiện đang dao động quanh ngưỡng lần lượt là gần 83 USD/thùng (tương đương tăng khoảng 0,78%) và 78,4 USD/thùng (tăng 0,24%). 

Dự báo về giá dầu trong thời gian tới, EIA cho rằng giá dầu Brent được dự báo sẽ giao dịch trung bình quanh 93 USD/thùng trong quý IV/2023 và có xu hướng giảm xuống mức bình quân 87 USD/thùng trong năm 2024. Về phía Goldman Sachs, tổ chức này dự báo giá dầu Brent sẽ giao dịch quanh mức 86 USD/thùng vào tháng 12/2023 và tăng lên mức 93 USD/thùng trong nửa đầu năm 2024.

Ngoài ra, phải kể đến đại dự án khí-điện Lô B – Ô Môn vừa được Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) tổ chức lễ ký kết và triển khai vào tháng 10 vừa qua. Tại buổi lễ, liên danh nhà thầu PTSC-McDermott đã được trao gói thầu EPCI #1 với điều khoản giới hạn. Tổng giá trị của gói EPCI #1 (bao gồm giàn vận hành trung tâm, khu sinh hoạt và một số giàn đầu giếng) ước tính có tổng giá trị là 1,1 tỷ USD.

CTCP Chứng khoán SSI đánh giá đại dự án khí-điện Lô B – Ô Môn trong trường hợp đạt FID (quyết định đầu tư cuối cùng) sẽ là yếu tố hỗ trợ mạnh cho ngành dầu khí. PVS, PVB và PVD là sẽ được hưởng lợi đầu tiên của đại dự án này, vì đây những doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với quá trình xây dựng và khoan thượng nguồn để khai thác dòng khí đầu tiên vào năm 2026. PVS và PVD được kỳ vọng sẽ tạo ra nguồn doanh thu đáng kể trong vòng đời của dự án dựa trên quy hoạch phát triển dầu khí, trong khi PVB sẽ ghi nhận backlog (hiểu là danh sách công việc hoàn thành dự án) liên quan đến dự án đến năm 2025 (đường ống phải sẵn sàng hoạt động trước khi khai thác dòng khí đầu tiên).

"Như vậy, dựa trên giả định FID (hiểu là quyết định đầu tư cuối cùng) sẽ được phê duyệt vào cuối năm 2023, PVS và PVD có thể đạt CAGR (tốc độ tăng trưởng kép) lợi nhuận ròng giai đoạn 2023-2026 lần lượt là 15,9% và 26%, trong đó backlog từ dự án Lô B sẽ là mấu chốt cho tốc độ tăng trưởng này", SSI phân tích.

Ngoài các doanh nghiệp trên, CTCP Chứng khoán Yuanta Việt Nam đánh giá GAS cũng sẽ hưởng lợi từ dự án nhờ việc nắm 51% cổ phần đường ống dẫn khí. KQKD của GAS sẽ ảnh hưởng tích cực từ năm 2026 do nguồn khi bổ sung từ lô B và cước vận chuyển khí.

Một động lực khác với cổ phiếu dầu khí là Luật Dầu khí (sửa đổi) mới (hiệu lực từ tháng 7/2023) sẽ tạo cơ sở giúp việc thương lượng gia hạn các hợp đồng, cấu trúc lại thương vụ để xúc tiến giai đoạn 2B kịp thời triển khai EPCI (thiết kế, mua sắm, chế tạo, lắp đặt, đấu nối và chạy thử) vào cuối năm 2023.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25175.00 25177.00 25477.00
EUR 26671.00 26778.00 27961.00
GBP 31007.00 31194.00 32152.00
HKD 3181.00 3194.00 3297.00
CHF 27267.00 27377.00 28214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16215.00 16280.00 16773.00
SGD 18322.00 18396.00 18933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18215.00 18288.00 18819.00
NZD   14847.00 15342.00
KRW   17.67 19.30
DKK   3582.00 3713.00
SEK   2293.00 2380.00
NOK   2270.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ