Cổ phần hóa: Vẫn giằng xé giữa các mục tiêu

Có một vấn đề xem ra đã mang tính thời sự... trường kỳ, đến mức thành nhàm chán. Đó là việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
PHAN MINH NGỌC
26, Tháng 08, 2019 | 14:14

Có một vấn đề xem ra đã mang tính thời sự... trường kỳ, đến mức thành nhàm chán. Đó là việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.

Khổ lắm, nói mãi, nhưng chưa chắc đã... biết hết rồi

Trong một năm và cứ như vậy kéo dài qua hàng thập kỷ nay, không biết bao nhiêu lần các cơ quan liên đới, các quan chức từ cấp vụ đến Phó thủ tướng và Thủ tướng đưa ra kế hoạch, tìm giải pháp, đôn đốc, thúc giục, và thậm chí đe dọa sẽ “xử lý” cá nhân và tổ chức chậm trễ trong cổ phần hóa và thoái vốn. Nói thì cứ nói, dọa thì cứ dọa nhưng mọi việc chẳng mấy tiến triển so với mong muốn, với đủ loại lý do được đưa ra cũng đã trở thành quá quen thuộc, tương tự như cách người ta giải thích lý do các dự án đầu tư công chậm trễ, đội vốn.

24103_cophanhoavangiangxegiuacacmuctieu_leanh

“Bất cập cơ chế” là thủ phạm chính được chỉ ra để giải thích cho mọi sự chậm trễ trong việc cổ phần hóa. Ảnh minh họa Lê Anh.

Tuy nhiên, có một điều cốt tử đằng sau việc lỡ kế hoạch cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước ít, hầu như không được đề cập đến. Nói tóm tắt trong mấy từ thì đó là xung đột mục tiêu.

DNNN nào, vốn nhà nước ở doanh nghiệp nào đang thua lỗ, bết bát, bên bờ phá sản mà không được phá sản thì cần phải được phép cổ phần hóa và thoái vốn khẩn trương bằng mọi giá, kể cả giá 1 đồng.

Với những DNNN, vốn nhà nước còn lại, nguyên tắc giảm giá và nới lỏng điều kiện cần được áp dụng qua mỗi lần đấu giá cho đến khi cổ phần hóa, thoái vốn thành công.

Trên lý thuyết, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước trước hết nhằm mục tiêu tối thượng là giảm thiểu nhanh chóng sự dính líu của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế (thông qua các DNNN). Nhìn từ góc độ hiệu quả thì Nhà nước là một nhà đầu tư, nhà quản lý tồi so với nhà đầu tư, nhà quản lý tư nhân.

Bản chất của sự yếu kém này nằm ở chế độ sở hữu “cha chung không ai khóc”, do đó nguyên tắc “đồng tiền đi liền khúc ruột” bị vi phạm. Tiền Nhà nước mang đi đầu tư là tiền của dân, nhưng/nên hầu như không một “người... Nhà nước” nào phải chịu trách nhiệm, phải bận tâm đến hiệu quả đầu tư. Điều này dẫn đến nhiều hậu quả như Nhà nước bị thất thoát vốn, thậm chí gánh thêm nợ nần phát sinh bởi DNNN, trong khi kinh tế tư nhân thì bị chèn ép.

Nhưng ngay cả khi thực hiện mục tiêu tối thượng trên thì bản chất sở hữu “cha chung không ai khóc” vẫn phát huy tác dụng, ở chỗ là do tiền không phải là của mình nên những người có trách nhiệm hoặc là thực hiện theo kiểu “ném tiền qua cửa sổ”, hoặc là lợi dụng để trục lợi.

Sự thể này lại dẫn đến mục tiêu cũng là tối thượng thứ hai là cổ phần hóa và thoái vốn (nhanh chóng, đúng kế hoạch) nhưng không được làm thất thoát vốn nhà nước. Thế là người nọ nhìn người kia để rồi rốt cục “bất cập cơ chế” là thủ phạm chính được chỉ ra để giải thích cho mọi sự chậm trễ. Do thủ phạm này có danh nhưng không có (hình hài) thực nên có lẽ nó sẽ còn tồn tại dài dài ít nhất cho đến chừng nào mà “cơ chế” thay đổi về chất.

Chưa hết, trong bối cảnh ngân sách nhà nước luôn chi nhiều thu ít thì cổ phần hóa, thoái vốn trở thành một cái phao cứu sinh cho ngân sách. Nên lẽ đương nhiên là cổ phần hóa, thoái vốn có thêm một mục tiêu tối thượng thứ ba là tối đa hóa lợi ích cho Nhà nước (tối đa hóa tiền thu về ngân sách). Vậy là, (với việc sử dụng nhiều thủ thuật), trong nhiều trường hợp, DNNN và cổ phần nhà nước trong doanh nghiệp được định giá trên trời với điều kiện để mua cổ phần khó nhằn, mang tính loại trừ cao(1). Đương nhiên là cổ phần hóa và thoái vốn cũng vì thế mà “đi bộ” trường kỳ!

Cần phân loại doanh nghiệp, cổ phần phải bán bằng mọi giá, giảm giá, nới điều kiện mua...

Để khắc phục được sự xung đột mục tiêu trên thì phải phân loại DNNN và vốn nhà nước phù hợp với từng mục tiêu cụ thể. Chẳng hạn, DNNN nào, vốn nhà nước ở doanh nghiệp nào đang thua lỗ, bết bát, bên bờ phá sản mà không được phá sản thì cần phải được phép cổ phần hóa và thoái vốn khẩn trương bằng mọi giá, kể cả giá 1 đồng. Với những DNNN, vốn nhà nước còn lại, nguyên tắc giảm giá và nới lỏng điều kiện cần được áp dụng qua mỗi lần đấu giá cho đến khi cổ phần hóa, thoái vốn thành công.

Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra: Ai sẽ (có trách nhiệm, dũng cảm) thực hiện việc phân loại trên? Bởi người này có rủi ro lớn là sẽ phải hứng chịu hậu quả mỗi khi các trường hợp cổ phần hóa, thoái vốn được xét lại. Kể cả khi làm một cách trung thực, công tâm thì vẫn có rủi ro khi cấp dưới không như vậy trong việc đề xuất, tham mưu mà cấp trên không nhận biết được. Trong cơ chế hiện nay thì xem ra câu trả lời là bỏ ngỏ.

Liên quan đến vấn đề trên là chuyện sử dụng tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước. Gần đây có một số đề xuất thoái vốn nhà nước tại một số doanh nghiệp lớn và dùng vốn này đầu tư vào một số dự án như giao thông, cảng biển...(2). Với nhiều người, đây là một bài toán khó, bởi áp lực nhu cầu vốn nhà nước lớn trong khi cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước lại rất chậm chạp, thậm chí bế tắc trong nhiều trường hợp.

Tuy nhiên, trong khi không phủ nhận cái khó của Nhà nước, các tiền đề trong bài toán trên cần được đặt lại cho phù hợp hơn.

Thứ nhất, vốn thu về từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước phải được tập trung vào ngân sách. Về phía chi, vốn này không phải là để chi cụ thể cho một dự án nào theo kiểu “đồng này mua mắm, đồng này mua muối”, mà phải thực hiện theo các nguyên tắc chi ngân sách chung.

Thứ hai, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước cần song hành với nguyên tắc Nhà nước giảm thiểu các hoạt động đầu tư, và/hoặc sở hữu doanh nghiệp, dự án, cổ phần mới. Do đó, việc Nhà nước trực tiếp đầu tư vào một dự án nào đó, kể cả có được dán nhãn “cấp thiết”, nhất là sử dụng tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn từ một doanh nghiệp cụ thể nào đó, là điều nên tránh. Thay vào đó, Nhà nước chỉ dùng các công cụ pháp lý để khuyến khích, hoặc “đặt hàng” nhà đầu tư tư nhân cho các dự án mong muốn.

Khi sửa lại được các tiền đề này thì bài toán trên trở nên bớt khó hơn, bởi: (i) trong số vô vàn dự án thuộc dạng “cấp thiết”, Nhà nước buộc sẽ lựa ra một số dự án “cấp thiết hơn” phù hợp với khả năng chi ngân sách, đồng nghĩa là một số dự án “cấp thiết” sẽ không còn là cấp thiết, phải tiến hành ngay nữa; (ii) Nhà nước không trực tiếp là nhà đầu tư, chủ đầu tư nên áp lực vốn lên ngân sách cũng vì thế mà giảm đi. Và cũng vì thế, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước sẽ đỡ bị vướng vào tình cảnh vừa phải làm nhanh, vừa phải thu được nhiều tiền mà lại không bị thất thoát. 

Đến hết năm 2020, 93 DNNN phải cổ phần hóa

Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg phê duyệt Danh mục doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đến hết năm 2020.

Theo đó, có bốn doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, Nhà nước nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên, gồm: 1. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; 2. Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam - Công ty mẹ; 3. Tổng công ty Lương thực miền Bắc; 4. Công ty TNHH một thành viên Khoáng sản. Có 62 doanh nghiệp giữ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ. Có 27 doanh nghiệp giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống hoặc không nắm giữ cổ phần.

Thủ tướng Chính phủ giao Bộ trưởng Bộ quản lý ngành, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Hội đồng thành viên tập đoàn kinh tế, tổng công ty tổ chức, triển khai thực hiện cổ phần hóa (hoàn thành công bố giá trị doanh nghiệp) đúng kế hoạch; xây dựng lộ trình tiếp tục bán phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa đảm bảo phù hợp với tiêu chí quy định.

Bên cạnh đó, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định việc điều chỉnh tỷ lệ vốn nhà nước nắm giữ tại các doanh nghiệp sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích; những trường hợp đặc thù, có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế tại địa phương, phục vụ chiến lược phát triển ngành và các trường hợp đặc thù khác.

Đồng thời, báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định đối với trường hợp Nhà nước cần nắm giữ từ 36% đến 50% vốn điều lệ khi thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống hoặc không nắm giữ cổ phần.

Các nơi này chịu trách nhiệm về việc không hoàn thành cổ phần hóa theo đúng tiến độ quy định.

Theo chinhphu.vn

(Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25100.00 25120.00 25440.00
EUR 26325.00 26431.00 27607.00
GBP 30757.00 30943.00 31897.00
HKD 3164.00 3177.00 3280.00
CHF 27183.00 27292.00 28129.00
JPY 159.58 160.22 167.50
AUD 15911.00 15975.00 16463.00
SGD 18186.00 18259.00 18792.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 17956.00 18028.00 18551.00
NZD   14666.00 15158.00
KRW   17.43 19.02
DKK   3535.00 3663.00
SEK   2264.00 2350.00
NOK   2259.00 2347.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ