Chuyên gia lạc quan về triển vọng tăng trưởng của Việt Nam

Nhàđầutư
VEPR cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,6 - 6,8% của năm 2019 do Quốc hội đề ra là khả thi.
XUÂN TIÊN
12, Tháng 04, 2019 | 08:23

Nhàđầutư
VEPR cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,6 - 6,8% của năm 2019 do Quốc hội đề ra là khả thi.

Toa-Dam-Vepr

Toàn cảnh tọa đàm diễn ra chiều 11/4

Tại Toạ đàm công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô Quý I/2019 do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) tổ chức chiều 11/4 tại Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR dẫn số liệu công bố của Tổng cục Thống kê (TCTK) cho biết tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý I/2019 đạt mức 6,79%, chứng tỏ đà tăng trưởng có phần giảm sút trong năm 2019.

Khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức 6,5% trong quý I, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước ở mức 6,7%. Bán buôn và bán lẻ với mức tăng trưởng 7,82% tiếp tục là ngành đóng góp nhiều nhất vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế (0,95 điểm phần trăm)…

Với mức tăng trưởng đạt 6,79% của quý I, nhóm nghiên cứu Kinh tế vĩ mô của VEPR cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,6 - 6,8% của năm 2019 do Quốc hội đề ra khả thi.

Tuy nhiên, trước vấn đề cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung và chủ nghĩa bảo hộ, rủi ro của kinh tế Trung Quốc, tương lai không rõ ràng của tiến trình Brexit và mâu thuẫn trong nội bộ khu vực EU, có thể có những cú sốc bên ngoài, có tác động nhất định tới diễn biến của nền kinh tế Việt Nam trong năm 2019.

Người đứng đầu VEPR cũng nhận định, tỷ lệ lạm phát bình quân quý 1 đang ở mức vừa phải (2,63%), tuy nhiên đang có xu hướng gia tăng gần đây. Tác động của việc tăng giá điện và xăng dầu vừa qua đến CPI có thể kéo dài tới 2 - 6 tháng. Do vậy, để đạt được mục tiêu lạm phát dưới 4%, chính sách tiền tệ của NHNN vẫn cần sự thận trọng.

TS Nguyễn Đức Thành phân tích, trong bối cảnh tăng trưởng GDP ở mức cao, chỉ số quản trị nhà mua hàng (PMI) trong Quý 1/2019 lại có sự sụt giảm so với tháng 12/2018. Chỉ số này giảm từ 53,8 điểm xuống lần lượt còn 51,9, 51,2 và 51,9 điểm trong ba tháng đầu năm, thể hiện tốc độ mở rộng chậm ở khu vực sản xuất.

Về tình hình lãi suất, VEPR phân tích, nhìn chung, so với cùng kỳ năm 2018, lãi suất liên ngân hàng quý 1/2019 có xu hướng cao, biên độ dao động hẹp hơn trong khoảng 3,38% (giữa tháng 1) cho tới 5,6% (cuối tháng 2 – trước Tết nguyên đán).

Lãi suất liên ngân hàng đạt ngưỡng cao nhất quý tại thời điểm cận Tết do nhu cầu vốn vay ngắn hạn tăng cao. Sau mùa cao điểm tới cuối quý I/2019, lãi suất chỉ còn 3,32%. Nguyên nhân của sự gia tăng lãi suất là do đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc và biến động nguồn tiền gửi từ các ngân hàng lớn.

Trong năm 2019, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng 14%. Trong đó, tín dụng vẫn sẽ được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, đảm bảo kiểm soát rủi ro và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế.

Đến hết quý I/2019 tăng trưởng tín dụng hơn 2,28% (tính đến ngày 25/3/2019) mức thấp hơn so với cùng kỳ năm trước (2,78%). Trong đó, tín dụng chảy vào ngành công nghiệp tăng trưởng nhanh nhất đạt 2,57%, thương mại và dịch vụ đạt 1,97% (so với đầu năm). Đối với nhóm các ngành ưu tiên, xuất khẩu, công nghệ hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt mức tăng trưởng tín dụng cao lần lượt tại 5,4%, 3,44% và 2,79%. Ngành nông nghiệp, nông thôn mặc dù có tăng trưởng tín dụng nhưng tỷ trọng dư nợ lớn, tăng 2% so với đầu năm.

Dù có nhiều đánh giá tích cực, báo cáo của VEPR cũng chỉ ra tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực FDI, một số ngành có dấu hiệu chậm lại.

Mặt khác, cũng trong Quý I/2019, thế giới cũng chứng kiến nhiều biến động khó lường (chiến tranh thương mại, kinh tế Mỹ và Trung Quốc trở nên bấp bênh hơn).

Đây là những yếu tố tiềm ẩn rủi ro cho nền kinh tế có “độ mở lớn nhất thế giới” như Việt Nam. Trong đó, hệ thống tài chính được nhiều chuyên gia đánh giá là nhạy cảm với các “cú sốc” từ bên ngoài hơn cả.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ