Chỉ số tiêu dùng TP.HCM tháng 6/2020: Nhóm hàng ăn uống tăng giá mạnh nhất

Nhàđầutư
Theo bà Trần Mai Phương, Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM do tác động của nhiều yếu tố như dịch COVID-19, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng, công tác quản lý, bình ổn giá… đã khiến cho giá cả thị trường có nhiều biến động dẫn đến có 5 nhóm chỉ số tiêu dùng giảm và 4 nhóm tăng.
KỲ PHONG
08, Tháng 07, 2020 | 13:19

Nhàđầutư
Theo bà Trần Mai Phương, Phó Giám đốc Sở Tài chính TP.HCM do tác động của nhiều yếu tố như dịch COVID-19, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng, công tác quản lý, bình ổn giá… đã khiến cho giá cả thị trường có nhiều biến động dẫn đến có 5 nhóm chỉ số tiêu dùng giảm và 4 nhóm tăng.

Thông tin về tình hình giá cả thị trường TP.HCM trong thời gian qua, bà Trần Mai Phương, Phó giám đốc Sở Tài chính TP.HCM cho biết, từ đầu năm 2020, cả nước và toàn thế giới xảy ra dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế của các nước trong. Trong đó, nặng nề nhất là mảng du lịch khách sạn, nhà hàng ăn uống, giao thương, sản xuất… từ đó làm giá cả thị trường biến động.

Bên cạnh đó, tác động từ việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng lên mức 4,18 – 4,42 triệu đồng/tháng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, liên hiệp tác xã, hợp tác xã, tổ hợp tác xã, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan tổ chức có sử dụng lao động theo quy định của chính phủ đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động… qua đó, ảnh hưởng đến tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế…

20190523_115448

Ảnh minh họa

Tác động của việc tăng giá một số hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu dùng tăng cao trong dịp Tết Nguyên đán, cũng như, tác động từ sự bất ổn của một số nền kinh tế và tài chính trên thế giới cùng với việc điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngân hàng Nhà nước đã ảnh hưởng trực tiếp đến giá vàng và đô la Mỹ trong nước.

Ngoài ra, công tác quản lý và bình ổn giá được chỉ đạo và triển khai quyết liệt từ trung ương đến thành phố, đặc biệt tác động từ 4 chương trình bình ổn thị trường trên địa bàn TP.HCM đã góp phần ổn định giá các mặt hàng thiết yếu tại TP.

Cụ thể, 5 nhóm có chỉ số tiêu dùng tại TP.HCM giảm trong tháng 6/2020 gồm: Nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,61% so với tháng trước do giá điện sinh hoạt giảm 4,56%, giá thuê nhà giảm 0,29%, giá nhiên liệu chất đốt giảm 0,54%, các mặt hàng còn lại không biến động.

Kế tiếp là nhóm đồ uống và thuốc lá giảm 0,15%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,1%; nhóm thiết bị đồ dùng gia đình giảm 0,06% và cuối cùng là nhóm văn hóa giải trí và du lịch giảm 0,08% so với tháng trước.

Trong khi đó, chỉ số giá tăng trong tháng 6/2020 có 4 nhóm gồm: Nhóm giao thông tăng 6,92% chủ yếu do tác động của 2 đợt điều chỉnh giá xăng dầu (ngày 28/5 và ngày 12/6/2020) từ đó làm cho giá xăng dầu các loại tăng 14,34% - 15,23%, dầu diesel tăng 13,29% so với tháng trước.

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0.52%, trong đó lương thực tăng 0,18% chủ yếu là các mặt hàng gạo tăng giá 0,14% - 0,58%; thực phẩm tăng 0,95% chủ yếu do giá thịt gia súc tươi sống tăng 2,93% dẫn đến các sản phẩm chế biến cũng tăng 1,42%.

Tiến đến nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,15%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,08%.

Dự báo về tình hình giá cả thị trường trong tháng 7/2020, bà Trần Mai Phương, Phó giám đốc Sở Tài chính TP.HCM cho biết, trong thời gian tới tình hình thời tiết mưa sẽ gây ảnh hưởng sản lượng của một số mặt hàng thực phẩm như rau củ quả, đặt biệt là mặt hàng rau lá từ đó tác động lên giá bán trên thị trường. Bên cạnh đó, giá xăng dầu thế giới có xu hướng tăng từ đó sẽ tác động đến giá cả của thị trường trong nước.

“Dự đoán giá cả thị trường trong 6 tháng cuối năm 2020 có thể biến động lớn, ước tính chỉ số giá tiêu dùng tháng 7 năm 2020 tăng nhẹ so với tháng trước”, bà Phương thông tin.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ