Cần đánh giá đúng mức với cây cao su

Nhàđầutư
Cao su là cây công nghiệp dài ngày có vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp Việt Nam, được Bộ NN&PTNT đánh giá là cây đa mục tiêu, ngoài SXKD khai thác nhựa cao su còn là cây phủ xanh đất trống đồi trọc. Sau 20- 30 năm khai thác cây cao su đã đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
ANH BÌNH
25, Tháng 03, 2019 | 14:13

Nhàđầutư
Cao su là cây công nghiệp dài ngày có vị trí quan trọng trong ngành nông nghiệp Việt Nam, được Bộ NN&PTNT đánh giá là cây đa mục tiêu, ngoài SXKD khai thác nhựa cao su còn là cây phủ xanh đất trống đồi trọc. Sau 20- 30 năm khai thác cây cao su đã đưa lại hiệu quả kinh tế cao.

Từ định hướng phát triển của Chính phủ

Năm 2009, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 750/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và tầm nhìn 2020. Theo đó diện tích cao su trồng trên lãnh thổ Việt Nam ổn định 800 ngàn ha. Trong giai đoạn 2010 - 2015 cao su Việt Nam có bước phát triển nhanh, phá vỡ quy hoạch đã được phê duyệt của Thủ tướng. Nguyên nhân diện tích cao su tăng nhanh phá vỡ quy hoạch Trong những năm 2010, 2011, 2012 bởi giá cao su thị trường xuất khẩu tăng cao, có lúc lên tới 5.000 USD/tấn mủ khô (năm 2011) vì thế nên Tập đoàn CNCSVN, các doanh nghiệp, nông dân đã mở rộng diện tích trồng cao su nhiều tỉnh trên cả nước.

anh 4

Nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan trồng cây cao su tại cty cao su tỉnh Nghệ An

Năm 2008 Bộ NN&PTNT ra Quyết định số 2855/QĐ-BNN-KHCN xác định, cây cao su là cây đa mục tiêu. Đồng thời, Thông tư 58/2009/TT-BNN-PTNT năm 2009 cho phép chuyển diện tích đất rừng nguyên liệu, đất trồng rừng sản xuất có đủ điều kiện sang trồng cao su. Chính từ những nguyên nhân trên, trong giai đoạn 2009 - 2015 diện tích cao su trên toàn quốc tăng 304 ngàn ha, bình quân mỗi năm tăng trên 50 ngàn ha. Sau 5 năm thực hiện quy hoạch của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tổng diện tích cao su toàn quốc lên tới 981 ngàn ha so với diện tích quy hoạch đến năm 2020 vượt 181 ngàn ha.

Trong đó Vùng Đông Nam Bộ vượt 140,3 ngàn ha, vùng Duyên hải miền Trung vượt 30,8 ngàn ha. Đặc biệt là vùng Đông Bắc không quy hoạch trồng cao su nhưng cũng đã trồng lên tới 6,2 ngàn ha…chủ yếu cao su tiểu điền. Đây thể hiện cây cao su có giá trị kinh tế, việc làm nên nông dân xem cây cao su là cây trồng chủ lực để phát triển kinh tế hiệu quả nhất.  

Theo số liệu thống kê, trong 10 năm năng suất cao su Việt Nam tăng 3 tạ/ha từ 13,9 tạ/ha (năm 2004) tăng lên 16,9 tạ/ha (năm 2015), tốc độ tăng trưởng bình quân 2%/năm. Năng suất năm 2015 giảm 0,3 tạ/ha so với năm 2013 bởi do giảm suất đầu tư, trong lúc đó tác động của khí hậu thời tiết mưa bão, lũ lụt, một số diện tích không được khai thác bởi do thua lỗ. Hiện tại năng suất cao su Việt Nam đứng thứ hai chỉ đứng sau Ấn Độ 1,8 tấn/ha. Năng suất tăng cao do Tập đoàn, các chủ đầu tư đưa các giống cây phù hợp với tiểu vùng, áp dụng nhanh các tiến bộ kỹ thuật mới về trồng, chăm sóc, cạo mủ,.... Vì thế, vườn cây cao su đưa vào khai thác 3 - 4 năm đầu đạt trung bình 1,1 - 1,3 tấn/ha và đạt năng suất cao nhất từ tuổi 11 - 25 năm, khi gần hết chu kỳ khai thác còn 3 - 4 năm, năng suất cao su giảm nhanh, chu kỳ kinh doanh cây cao su khoảng 30 năm.

Và hiệu quả

Phải khẳng định rằng: cây cao su là cây đa mục tiêu, là cây công nghiệp dài ngày đưa lại giá trị kinh tế khai thác liên tục 25-30 năm. Sau khi thu hoạch hết khối lượng mủ trong thân cây, số diện tích cao su nói trên trở thành cả một rừng gỗ quý, chủ đầu tư sẽ đưa vào khai thác chế biến ra các sản phẩm mộc dân dụng và xuất khẩu. Bình quân mỗi ha khai thác thu nhập trên 300 triệu đồng, sau đó tái canh trồng mới trở lại, phát triển theo chu kỳ. Nói về giá trị kinh tế sản lượng mủ cao su liên tục tăng với tốc độ trung bình 6,2 %/năm.

IMG_1018

TGĐ tập đoàn cao su Việt nam Trần Ngọc Thuận kiểm tra phát triển diện tích cây cao su tại Nghệ An.

Năm 2015 sản lượng cao su đạt 1.017 ngàn tấn, tăng 339,2 ngàn tấn so với năm 2009. Năm 2014- 2015 sản lượng mủ cao su Việt Nam đã vượt qua các nước Malaysia, Ấn Độ, Trung Quốc, vươn lên vị trí thứ 3 về sản lượng mủ khai thác, chiếm gần 11% sản lượng cao su thiên nhiên toàn cầu. Ngoài xuất khẩu mủ cao su khô, nhiều thành phần kinh tế đã tham gia chế biến nguyên liệu cao su.

Được biết, hiện nay cả nước có 238 doanh nghiệp chế biến mủ cao su, công suất đạt gần 1,2 triệu tấn/năm, riêng Tập đoàn CNCSVN hiện có 44 nhà máy, xí nghiệp chế biến mủ cao su, với công suất thiết kế 433 ngàn tấn/năm, chiếm 36,1% công suất các cơ sở chế biến mủ cao su. Tổng công suất của các cơ sở chế biến hiện nay vượt sản lượng cao su hàng năm từ 15- 20%.

Tuy nhiên do không có quy hoạch cơ sở chế biến cao su, việc xây dựng nhà máy chưa gắn vùng nguyên liệu nên nhiều cơ sở tư nhân xây dựng tự phát dẫn đến tranh mua bán nguyên liệu mủ, gây mất an ninh trật tự xã hội và làm lãng phí trong đầu tư, đồng thời khó kiểm soát được chất lượng mủ thu mua, lẫn nhiều tạp chất lạ, dẫn đến sản phẩm cao su sơ chế giảm chất lượng, ảnh hưởng uy tín trên thị trường xuất khẩu, kèm theo giá cao su xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia từ 15-20% với cùng chủng loại.

Hàng năm Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam chế biến được từ 300 - 330 nghìn tấn mủ các loại, trong đó chiếm hơn 70% là sản lượng cao su của Tập đoàn, còn lại gần 30% sản lượng là thu mua của cao su tiểu điền. Chủng loại sản phẩm chế biến khá phong phú, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và một phần tiêu thụ trong nước. - Công nghệ chế biến chủ yếu là sản xuất trong nước đáp ứng khá tốt sơ chế nguyên liệu xuất khẩu thô với 92% là vốn đầu tư trong nước, chỉ có 8% vốn đầu tư 6 nước ngoài bao gồm chủ yếu xuất sang Trung Quốc nên lệ thuộc nhiều vào thị trường Trung Quốc.

Trong khi nhu cầu phổ biến của thế giới là loại sản phẩm RVR 10,20 nhưng chiếm 60 - 65% sản lượng tiêu thụ cao su thiên nhiên thế giới, nhưng các cơ sở chế biến của ta chưa quan tâm đúng mức nên sản phẩm này của Việt Nam chiếm tỷ lệ thấp (gần 20%).

 Giá trị kinh tế đến việc làm

Theo báo cáo của Tập đoàn CNCSVN, sau khi hết thời kỳ khai thác mủ, số diện tích cao su này được thanh lý trở thành rừng gỗ quý đưa vào khai thác chế biến SX đồ mộc dân dụng, xuất khẩu chế biến gỗ ván ép, gỗ MDF. Hiện nay Tập đoàn có 13 nhà máy chế biến gỗ, công suất trên 200 nghìn m3 gỗ phôi/năm, sử dụng hơn 7 ngàn ha cao su thanh lý hàng năm.

DSCF5906

Ủy viên TW Đảng, Bí thư tỉnh ủy Hà Tĩnh Lê Đình Sơn tham dự lễ mở cạo tại công ty cao su Hương Khê Hà Tĩnh

Điển hình như nhà máy chế biến gỗ cao su ở tỉnh Gia Lai công suất 9 ngàn m3 phôi/năm, tỉnh Quảng Trị có 2 nhà máy, công suất đạt 120 nghìn m3 gỗ MDF/năm, tỉnh Bình Phước có nhà máy MDF công suất lớn lên tới 400 ngàn tấn/năm, được lắp ráp bởi công nghệ Hàn Quốc, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Tổng doanh thu của nhà máy đạt trên 1.000 tỷ đồng.

Đánh giá của một số chuyên gia kinh tế chuyên nghiên cứu về cây cao su cho biết, phát triển cây cao su không chỉ đơn thuần kinh doanh khai thác nhựa mà khi dự án trồng cao su được thực hiện thì kéo theo cả một toa ngành nghề, tạo việc làm cho hàng vạn công nhân lao động như trung tâm kỹ thuật về sản xuất giống giống, dịch vụ phân bón Phân bón, dịch vụ tiêu thụ mủ cao su cho các đại lý thu gom.

Nói về lao động, ngành cao su tăng liên tục trong những năm qua nên lao động hiện tại số lao động trực tiếp 0,5 triệu người. Đối tượng lao động ngày càng được mở rộng không chỉ là các hộ lao động người Kinh mà có cả lao động là đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng sa như ở 8 vùng Tây Nguyên, vùng Bắc Trung Bộ, vùng núi phía Bắc, riêng lao động người địa phương làm công nhân cho VGR có trên 40 ngàn lao động. Đời sống của người lao động ngành cao su trong nhiều năm qua có mức thu nhập khá cao trung bình từ 5 - 7 triệu đồng/tháng, ổn định trong nhiều năm, hơn hẳn so với một số cây trồng nông nghiệp khác.

Đặc biệt tất cả các dự án phát triển cao su của Tập đoàn CNCSV đều song hành với đầu tư cơ sở hạ tầng điện, đường, trường học, trạm xá…cao su đi đến đâu đời sống dân sinh văn hóa xã hội gắn với an ninh quốc phòng đều được phát triển đến đó.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ