Abenomics và vị Thủ tướng tại vị lâu nhất ở Nhật Bản

Nhàđầutư
Tính đến cuối tháng 11/2019, ông Shinzo Abe đã vượt qua Quatarako Katsuka trở thành vị Thủ tướng phục vụ lâu nhất trong lịch sử Nhật Bản, với 2.886 ngày tại vị. Mặc dù để lại nhiều dấu ấn trong đời sống chính trị của nước Nhật đương đại nhưng khi nhắc tới Shinzo Abe, người ta vẫn thường nói đến "chính sách" ABENOMICS.
HOÀNG AN
27, Tháng 01, 2020 | 08:58

Nhàđầutư
Tính đến cuối tháng 11/2019, ông Shinzo Abe đã vượt qua Quatarako Katsuka trở thành vị Thủ tướng phục vụ lâu nhất trong lịch sử Nhật Bản, với 2.886 ngày tại vị. Mặc dù để lại nhiều dấu ấn trong đời sống chính trị của nước Nhật đương đại nhưng khi nhắc tới Shinzo Abe, người ta vẫn thường nói đến "chính sách" ABENOMICS.

14-3_Opt

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe

Luồng gió mới cho kinh tế Nhật Bản

Sau khi tái đắc cử năm 2012, Thủ tướng ShinzoAbe đã công bố một chương trình kinh tế toàn diện mang tên “Abenomics” vào đầu năm 2013 với mục tiêu nhằm thúc đẩy tiêu dùng nội địa, tăng trưởng GDP và nâng lạm phát lên mức 2%.

Đến cuối năm 2014, Chính phủ Nhật Bản công bố chính sách Abenomics giai đoạn 2 (Abenomics 2.0) với những mục tiêu tham vọng và dài hạn hơn: Đó là nâng mức tăng trưởng kinh tế thêm khoảng 20% GDP, tương ứng 600 nghìn tỷ yên (5.000 tỷ USD) vào năm 2020; Tiếp đến là tăng cường các biện pháp hỗ trợ nuôi và sinh con; Và cuối cùng là cải thiện an sinh xã hội qua tăng cường xây dựng nhà dưỡng lão mới giúp người lao động yên tâm làm việc.

Để làm được những việc này, Chính phủ Nhật Bản tập trung vào 3 trụ cột chính: nới lỏng tiền tệ, thúc đẩy chi tiêu công và cải cách cơ cấu toàn diện.

Cần nhớ lại là trước khi có sự đồng thuận áp đảo của cử tri Nhật Bản dành cho chương trình nghị sự về chính sách kinh tế vĩ mô của Thủ tướng Shinzo Abe trong cuộc bầu cử Hạ viện ngày 14/12/2014, phần lớn người dân Nhật Bản đều vô cùng ghét viễn cảnh phải quay về quỹ đạo kinh tế ảm đạm lan khắp đất nước. Nhưng chính sách Abenomics đã mang lại một sức sống mới trong đời sống kinh tế chính trị của đất nước Nhật Bản.

Theo Koichi Hamada, cố vấn kinh tế đặc biệt củaThủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe, khi “mũi tên” đầu tiên của Abenomics - một chương trình kích thích tài khóa - được đưa ra, phản ứng tức thời của các thị trường tài sản là khá tích cực. Mũi tên thứ hai của Abenomics - chính sách nới lỏng tiền tệ - đã tăngcường những tác động này.

Trong hai năm sau đó, thị trường chứng khoán Nhật Bản đã tăng gần gấp đôi về giá trị, sự giàu có của người tiêu dùng Nhật Bản do đó cũng tăng lên. Hơn nữa, đồng yên đã giảm gần 1/3 so với đồng USD, từ khoảng 80 yên xuống gần 120 yên đổi một USD, tiếp thêm sinh lực cho các ngành xuất khẩu của Nhật Bản.

Tất nhiên, cũng có một số trở ngại nhất định: GDP của Nhật Bản giảm liên tục trong quý hai và quý ba của năm 2014. Nhưng không thể đổ lỗi sự suy thoái (kết quả của việc tăng thuế tiêu thụ từ 5% lên 8% vào tháng 4 năm đó) cho Abenomics.

Hai mũi tên đầu tiên của Abenomics đều nhằm mục đích kích cầu - và chúng đều vô cùng hiệu quả. Tăng thuế tiêu thụ là cần thiết để duy trì tầm xa của những mũi tên này. Thật không may, mức tăng là quá lớn để giữ chúng ở độ cao mong muốn.

Tin tốt là những tác động của việc tăng thuế này chỉ là tạm thời. Ngay sau đó, tác động của nó bắt đầu giảm, và sản lượng công nghiệp sẽ bắt kịp mức công suất tối đa. Khi lượng cầu bắt đầu vượt quá nguồn cung, chính sách kích cầu sẽ ngày càng trở nên không hiệu quả, và đó chính là lúc để bắt đầu mũi tên thứ ba của Abenomics: những cải cách cơ cấu nhằm thúc đẩy tăng trưởng.

Kết quả tích cực

Nhiệm vụ đầu tiên là loại bỏ, hay chí ít là giảm thiểu những quy định của chính phủ đang bóp nghẹt sự năng động của nền kinh tế. Hệ thống hiện tại luẩn quẩn và phức tạp đến nỗi phải mất đến hơn ba thập kỷ mới mở được một trường y khoa mới ở Tokyo. Tương tự, các chuyến bay đến sân bay Haneda, một điểm nối chuyến thuận tiện đến khu vực thành phố Tokyo, đã được xếp lịch theo hạn ngạch. Đây không phải là công thức cho một nền kinh tế thành công trong dài hạn.

Hơn nữa, chính phủ Nhật Bản lúc đó đang cố gắng thúc đẩy việc hoàn tất các cuộc đàm phán cho Hiệp định TPP, được cho là sẽ cải thiện đáng kể triển vọng thương mại của Nhật Bản, kể cả trong các lĩnh vực nhạy cảm như nông nghiệp, trong đó việc xuất khẩu nhóm hàng hóa tiêu dùng nhanh như hoa và rau quả sẽ được hưởng lợi. Mặc dù sau đó Hoa Kỳ đã rút ra khỏi hiệp định này nhưng CPTPP (phiên bản của TPP không có Mỹ) vẫn được 11 thành viên còn lại ký kết vào đầu tháng 3/2018 và chính thức có hiệu lực vào cuối năm 2018.

Tiếp đến, các nhà lãnh đạo của Nhật Bản cũng phải tìm giải pháp để mở rộng lực lượng lao động, hiện đang phải đối mặt với những khó khăn nghiêm trọng, phần lớn là do sự già đi một cách nhanh chóng của dân số. Trong khi quy mô dân nhập cư không lớn mà Nhật Bản vẫn chưa chịu nhượng bộ, một trong những giải pháp tương đối đơn giản là tăng cường tỉ lệ phụ nữ trong lực lượng lao động. Mức tăng 10% trong tỉ lệ nữ tham gia lực lượng lao động Nhật Bản - một mục tiêu hoàn toàn có thể đạt được - sẽ tương đương với mức tăng 5% trong toàn bộ lực lượng lao động.

Cuối cùng, chính phủ Abe phải giảm tỷ suất thuế doanh nghiệp về mức gần hơn với các tiêu chuẩn quốc tế. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt để thu hút đầu tư nước ngoài, giảm thuế doanh nghiệp trên thực tế sẽ làm tăng doanh thu thuế cho Nhật Bản bằng cách thúc đẩy các công ty đầu tư kho dự trữ tiền mặt khổng lồ của họ vào các hoạt động hiệu quả hơn.

Việc thực thi chính sách Abenomics đã đem lại những kết quả tích cực cho nền kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là những thành công với 2 mũi tên đầu tiên là bơm tiền vào thị trường thông qua kích thích hệ thống tài chính và tạo việc làm thông qua chính sách nới lỏng của Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ). Chính sách trọng tăng trưởng trong Abenomics, đặc biệt là chương trình mua lại trái phiếu của BOJ đã làm tốc độ tăng trưởng GDP của nước này lấy lại mức tăng trưởng dương, đặc biệt vào năm 2013, thời điểm bắt đầu thực thi chính sách Abenomics.

Việt Nam được gì từ Abenomics?

Theo Tiến sĩ Nguyễn Cẩm Tâm, bên cạnh những tác động rõ ràng đối với sự phục hồi kinh tế Nhật Bản, chính sách Abenomics còn tạo được những ảnh hưởng tích cực đến quan hệ kinh tế giữa Nhật Bản với các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

Theo chiến lược tăng trưởng của Abenomics, Chính phủ Nhật Bản hướng tới tăng cường đầu tưcho hạ tầng ở nước ngoài. Phương châm mà chính phủ nước này đề ra là dự kiến đến năm 2020 sẽ đầu tư khoảng 30.000 tỷ Yên cho cơ sở hạ tầng ở nước ngoài, trong đó, Việt Nam là điểm đầu tư được Nhật Bản đặc biệt coi trọng. Nếu Nhật Bản đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng tại Việt Nam thì hệ thống cơ sở hạ tầng ở Việt Nam sẽ hoàn chỉnh hơn và có lợi cho cả hai nước.

Abenomics cũng đề cao vấn đề cải thiện thị trường lao động của Nhật Bản bằng cách nới lỏng luật tuyển dụng lao động nước ngoài, đặc biệt là những lao động có trình độ và tài năng. Nhật Bản có chủ trương tiếp nhận lao động Việt Nam sang làm việc và nhiều doanh nghiệp đang tiếp nhận các thực tập sinh của Việt Nam. Chính phủ Nhật Bản đã mở rất nhiều những đặc khu kinh tế, trao quyền cho doanh nghiệp tự do lựa chọn lao động, đây là những cơ hội cho thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam.

Ngoài ra, trong chiến lược tăng trưởng của Abenomics, Nhật Bản còn chú trọng phát triển các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ chăm sóc người già. Dịch vụ này đòi hỏi rất nhiều hộ lý, điều dưỡng viên. Đây là một lĩnh vực mà 2 nước có thể thúc đẩy hợp tác.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ