VCCI đề xuất giảm 2% thuế VAT cho tất cả hàng hoá

Nhàđầutư
VCCI nhận định việc tiếp tục giảm thuế VAT vào thời điểm này là hết sức cần thiết, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng, tạo việc làm.
NHẬT HUỲNH
28, Tháng 10, 2023 | 06:30

Nhàđầutư
VCCI nhận định việc tiếp tục giảm thuế VAT vào thời điểm này là hết sức cần thiết, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng, tạo việc làm.

Giao-dich-ngan-hang- tien-7

Bộ Tài chính đề xuất giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) với các nhóm hàng hoá, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%). Ảnh Trọng Hiếu

Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý với đề nghị xây dựng Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2024.

Cụ thể, Bộ Tài chính đề xuất giảm 2% thuế giá trị gia tăng (VAT) với các nhóm hàng hoá, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% (còn 8%), trừ một số nhóm hàng hoá dịch vụ sau: Viễn thông, công nghệ thông tin, hoạt động tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, sản xuất kim loaị và sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, ngành khai khoáng (không kể khai thác than), sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế, sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất, các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Thời gian áp dụng từ ngày 1/1/2024 đến hết ngày 30/6/2024.

Đánh giá tác động của chính sách, Bộ Tài chính cho biết, dự kiến số giảm thu NSNN khoảng 4.175 tỷ đồng/tháng, nếu áp dụng trong 6 tháng đầu năm 2024 thì tương đương khoảng 25.000 tỷ đồng.

Để khắc phục và bù đắp các tác động đến thu NSNN trong ngắn hạn cũng như đảm bảo sự chủ động trong điều hành dự toán NSNN, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương chú trọng chỉ đạo thực hiện và triển khai hiệu quả các luật về thuế; tiếp tục cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế;

Đồng thời quyết liệt công tác quản lý thu NSNN, tập trung triển khai kịp thời, có hiệu quả các nhóm giải pháp quản lý thu, chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế; trong điều hành yêu cầu cả ngân sách trung ương và ngân sách các địa phương phải tiếp tục rà soát, cắt giảm các khoản chi chưa thực sự cần thiết (kể cả chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên) để đảm bảo cân đối chi ngân sách, không làm phát sinh tăng bội chi so với mức Quốc hội đã quyết định.

Liên quan đến vấn đề giảm thuế GTGT, góp ý đối với dự thảo Nghị quyết, một số ý kiến kiến nghị áp dụng phạm vi rộng hơn. 

Cụ thể, trong công văn phản hồi Bộ Tài chính về việc giảm thuế VAT 6 tháng đầu năm 2024, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho rằng tình hình kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong năm 2023 gặp nhiều khó khăn, thách thức. Do đó việc tiếp tục giảm thuế VAT vào thời điểm này là hết sức cần thiết, góp phần hỗ trợ doanh nghiệp lấy lại đà tăng trưởng, tạo việc làm.

Bên cạnh đó biện pháp giảm thuế VAT đã được thực hiện trong hai năm 2022 và 2023 mang lại nhiều tác động tích cực đối với các doanh nghiệp và nền kinh tế, đặc biệt là việc giúp tăng tiêu dùng nội địa trong bối cảnh các đơn hàng xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

Tuy nhiên, theo ghi nhận của VCCI, các doanh nghiệp gặp khá nhiều vướng mắc khi áp dụng chính sách này, chủ yếu xuất phát từ việc phân loại hàng hóa nào phải chịu thuế 10%, hàng hóa nào được giảm thuế xuống 8%. Mặc dù Chính phủ đã ban hành Nghị định 15/2022/NĐ-CP và Nghị định 44/2023/NĐ-CP nhằm hướng dẫn việc thực hiện, nhưng trên thực tế, việc phân loại hàng hoá, dịch vụ vào các mức thuế suất khác nhau vẫn còn nhiều lúng túng.

Vì vậy, VCCI đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc phương án giảm thuế giá trị gia tăng cho tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ từ mức 10% xuống mức 8%.

Trước đó vào ngày 24/10, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam cũng đề nghị bổ sung ngân hàng vào nhóm hàng hóa, dịch vụ được giảm 2% thuế suất thuế VAT nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng (TCTD) có thêm nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp và đầu tư công nghệ chuyển đổi số, đảm bảo an ninh an toàn trong hoạt động.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ