TS. Nguyễn Trí Hiếu: Đồng nhân dân tệ sẽ còn tăng giá trong cả năm 2018

Nhàđầutư
Một trong những động thái đáng chú ý mới đây trên thị trường tiền tệ thế giới là việc đồng Nhân dân tệ tăng giá mạnh so với đồng USD, đạt mức cao nhất trong 2 năm trở lại đây. Cùng với đó là xu hướng mất giá của đồng USD so với nhiều đồng tiền khác trên thế giới.
ĐÌNH VŨ
04, Tháng 02, 2018 | 07:51

Nhàđầutư
Một trong những động thái đáng chú ý mới đây trên thị trường tiền tệ thế giới là việc đồng Nhân dân tệ tăng giá mạnh so với đồng USD, đạt mức cao nhất trong 2 năm trở lại đây. Cùng với đó là xu hướng mất giá của đồng USD so với nhiều đồng tiền khác trên thế giới.

nhan-dan-te

 Sự tăng giá của Nhân dân tệ hiện nay chủ yếu phản ánh sự mất giá của USD

Trong một thông báo mới đây, ngày 15/1/2018, Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) cho biết đồng nội tệ của nước này đã tăng giá lên mức cao nhất trong 2 năm qua so với đồng USD sau khi ngân hàng trên tăng biên độ giao dịch hàng ngày lên mức cao nhất trong vòng 3 tháng.

Thông báo cho biết tỷ giá hiện tại giữa đồng nhân dân tệ và đồng USD đã lên tới mức 1 USD đổi được 6,4574 nhân dân tệ.

Trong khi đó, cũng nhờ việc tăng biên độ giao dịch trên, tỷ giá giữa 2 đồng tiền này trên thị trường nội địa Trung Quốc đã lên tới mức 1 USD đổi được 6,4138 Nhân dân tệ, mức cao nhất kể từ cuối năm 2015.

Với Việt Nam, việc đồng Nhân dân tệ tăng giá so với USD diễn ra đồng thời với việc Việt Nam đồng mất giá so với đồng Nhân dân tệ.

TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia Tài chính ngân hàng cho biết: Hiện nay đang có 2 xu hướng đồng thời đang diễn ra là việc đồng Nhân dân tệ tăng giá so với đồng USD và đồng Việt Nam mất giá so với đồng Nhân dân tệ. Điều này sẽ ảnh hưởng có lợi hơn cho xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và giảm nhập khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam.

Nhận định về xu hướng đồng Nhân dân tệ tăng giá so với đồng USD, theo ông Hiếu, đây là xu hướng trái ngược với năm 2016, khi đồng Nhân dân tệ mất giá mạnh so với USD. Xu hướng đồng Nhân dân tệ tăng giá so với đồng USD bắt đầu từ năm 2017, tiếp tục ở những tháng đầu năm 2018 khi tỷ giá tham chiều từ 6,3 xuống còn 6,2 và hứa hẹn sẽ còn kéo dài trong cả năm 2018.

Giải thích lý do tăng giá của đồng tiền này, ông Hiếu cho rằng nguyên nhân chính là do đồng USD mất giá mạnh trên toàn cầu trong thời gian gần đây. Điều này có lợi cho xuất khẩu của Mỹ và nó nằm trong kế hoạch chính sách của chính phủ Mỹ.

Cụ thể, trong hội nghị APEC diễn ra tại Đà Nẵng, Việt Nam năm 2017, Tổng thống Mỹ, ông Trump đã cảnh báo với các nước có quan hệ kinh tế mà xuất siêu sang Mỹ (trong đó có Trung Quốc, Việt Nam) rằng sẽ cân bằng lại cán cân thương mại. Vì thế, chính phủ Mỹ đã, đang và có thể sẽ tiếp tục hỗ trợ cho đồng USD mất giá để giảm nhập siêu.

Theo ông Hiếu, việc đồng USD mất giá trên thị trường tiền tệ thế giới với Trung Quốc hay Việt Nam đều có lợi về mặt ổn định kinh tế nhưng lại bất lợi cho xuất khẩu. Vì khi đồng USD mất giá, đồng nội tệ tăng giá thì xuất khẩu sẽ đắt đỏ hơn và hỗ trợ cho nhập khẩu các sản phẩm nước ngoài vào trong nước.

"Vì thế, nếu năm ngoái là xuất siêu sang Mỹ, thì năm nay có thể là nhập siêu từ Mỹ", ông Hiếu nói.

Tỷ giá đồng USD so với các đồng tiền chủ chốt khác đang ở mức thấp nhất trong 3 năm, chủ yếu do giới đầu tư gần đây cho rằng các ngân hàng trung ương lớn khác sẽ thắt chặt chính sách tiền tệ trong năm 2018, với tốc độ thắt chặt có thể nhanh hơn Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED).

Không chỉ có Nhân dân tệ, nhiều đồng tiền châu Á khác như Won Hàn Quốc, Đôla Singapore và Baht Thái cũng đã đạt mức cao nhất nhiều năm so với USD.

Theo nhà phân tích ngoại hối Eric Robertsen thuộc ngân hàng Standard Chartered, sự tăng giá của Nhân dân tệ hiện nay chủ yếu phản ánh sự mất giá của USD.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ