Ngân hàng tiếp tục dẫn sóng giúp VN-Index tăng điểm phiên cuối tuần

Nhàđầutư
Trong phiên ngày 14/5, nhóm cổ phiếu ngân hàng là trụ đỡ chính của thị trường khi phần lớn có được sắc xanh cùng thanh khoản sôi động.
NHẬT HUỲNH
14, Tháng 05, 2021 | 15:47

Nhàđầutư
Trong phiên ngày 14/5, nhóm cổ phiếu ngân hàng là trụ đỡ chính của thị trường khi phần lớn có được sắc xanh cùng thanh khoản sôi động.

2809_chung-khoan

Ảnh: Kinh tế chứng khoán.

Ngay từ đầu phiên giao dịch sáng ngày 14/5, sắc xanh đã chiếm ưu thế ở nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, giúp các chỉ số nhích lên trên mốc tham chiếu. Trong đó, nhóm cổ phiếu ngân hàng vẫn là trụ đỡ chính của thị trường khi phần lớn có được sắc xanh cùng thanh khoản sôi động.

Bên cạnh đó, nhóm cổ phiếu thép cũng đã có những tín hiệu tích cực, điển hình là cặp đôi HPG và HSG, trong đó HPG tăng hơn 1% với khối lượng khớp lệnh vươn lên vị trí dẫn đầu thị trường, đạt gần 14,2 triệu đơn vị.

Tuy nhiên, về cuối phiên sáng, áp lực bán dâng cao dần khiến chỉ số VN-Index thu hẹp biên độ tăng.

Tạm dừng phiên sáng, VN-Index tăng nhẹ 2,91 điểm (0,23%) lên 1.264,9 điểm, HNX-Index tăng 5,71 điểm (1,99%) lên 292,74 điểm. Upcom-Index giảm trở 0,05 điểm (-0,06%) xuống 81,12 điểm.

Bước sang phiên chiều, nhiều cổ phiếu ngân hàng đều giao dịch trong sắc xanh và tạo hiệu ứng tâm lý tích cực trong đó SHB và SSB đều được kéo lên mức giá trần. Các mã ngân hàng khác cũng tăng mạnh như HDB (+3%), VPB (+2,3%), LPB (+2%), VIB (+1,8%)...

Kết thúc phiên giao dịch ngày 14/5, VN-Index tăng 4,37 điểm lên 1.266,36 điểm với 190 mã tăng, 220 mã giảm và 48 mã đứng giá. HNX-Index tăng 7,69 điểm (2,68%) lên sát 295 điểm, còn Upcom-Index giảm 0,21% xuống 81 điểm. Thanh khoản thị trường duy trì ở mức cao với tổng khối lượng giao dịch đạt 990 triệu cổ phiếu, trị giá 26.590 tỷ đồng.

Trong phiên hôm nay, khối ngoại tiếp tục bán ròng hơn 1.600 tỷ đồng, với lực bán tập trung vào các mã như VNM, VIC, CTG, MSN, STB.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ