Mitsubishi Motors đối mặt với thực tế suy giảm lợi nhuận ở Đông Nam Á

Kẹt giữa các đối thủ đồng hương Nhật Bản và các hãng Trung Quốc mới nổi với xe điện giá rẻ, Mitsubishi Motors phải đối mặt với một cuộc chiến cam go để tồn tại ở Đông Nam Á.
KIM NGÂN
08, Tháng 07, 2021 | 14:04

Kẹt giữa các đối thủ đồng hương Nhật Bản và các hãng Trung Quốc mới nổi với xe điện giá rẻ, Mitsubishi Motors phải đối mặt với một cuộc chiến cam go để tồn tại ở Đông Nam Á.

Mitsu

Xe bán tải Triton của Mitsubishi. Ảnh: Mitsubishi Motors

Nhưng đối với tập đoàn này, Đông Nam Á là một thị trường đặc biệt quan trọng. Mitsubishi có hiện diện khá lớn trong khu vực, với khoảng 15% thị phần ở Philippines, 10% ở Indonesia và 7% ở Thái Lan. Tuy nhiên, tập đoàn chỉ giành được 1,7% thị phần tại Nhật Bản.

Đông Nam Á chiếm 77% trong tổng số 366,1 tỷ yên (3,3 tỷ USD) tổng lợi nhuận hoạt động hợp nhất mà nhà sản xuất này thu được trong 5 năm tính đến hết năm tài chính kết thúc vào tháng 3 năm 2020.

Nhưng biên lợi nhuận hoạt động sụt giảm nghiêm trọng đặt ra một thách thức lớn.

Trong năm tài chính 2015, khi Mitsubishi tạo ra kỷ lục về lợi nhuận hoạt động, tỷ suất lợi nhuận tại Đông Nam Á là 15,3%.

Con số này giảm xuống 11,5% trong năm tài chính 2019, sau đó giảm còn 2,9% trong năm tài chính tiếp theo.

Lợi nhuận hoạt động trên mỗi chiếc xe bán ra giảm tương tự từ 279.000 yên (hơn 2.500 USD) trong năm tài chính 2015 xuống còn 49.000 yên trong năm tài chính 2020.

Lợi nhuận trên mỗi xe của Toyota Motor ở mức 357.000 yên tại khu vực châu Á, bao gồm cả Trung Quốc, cho năm tài chính 2020. Ngay cả khi có đại dịch COVID-19, chỉ số này đã tăng gần 20.000 yên so với năm năm trước đó.

Thị phần của Mitsubishi giảm là nguyên nhân chính khiến lợi nhuận giảm. Theo hãng phân tích Marklines, tại Thái Lan, thị trường ô tô lớn nhất khu vực, thị phần của Mitsubishi giảm xuống còn 6,7% trong năm tài chính 2020, từ 8,6% trong năm tài chính 2019.

Mitsubishi chậm trễ trong việc tung ra các mẫu xe mới, ảnh hưởng đến sự nổi tiếng của thương hiệu này trong khu vực.

Đã sáu năm rưỡi kể từ khi xe bán tải Triton, mẫu xe bán chạy, được thiết kế lại hoàn toàn mới. Các đối thủ Nhật Bản Isuzu Motors và Toyota đã đánh bại Mitsubishi về tốc độ ra mắt xe mới.

Mitsubishi không ngồi yên. Hãng sẽ tung ra ít nhất 5 mẫu xe mới tại Đông Nam Á từ năm tài chính 2022. Triton và minivan Xpander sẽ được thiết kế lại hoàn toàn. Công ty cũng sẽ phát triển những chiếc ô tô được thiết kế riêng cho thị trường Đông Nam Á.

Một nền tảng chung sẽ được phát triển để sử dụng trong nhiều mô hình mới nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình triển khai.

Điện khí hóa cũng là một phần quan trọng trong chiến lược của Mitsubishi. Nhà sản xuất ô tô đang tìm cách để xe điện chiếm một nửa doanh số toàn cầu của hãng vào năm 2030, tăng từ mức 8% trong 12 tháng kết thúc vào tháng Ba.

Triton sẽ có một “biến thể” hybrid khi được thiết kế lại, và năm 2023, Mitsubishi sẽ trình làng một chiếc xe điện nhỏ có giá dưới 18.000 USD.

Koichi Sugimoto, nhà phân tích của Mitsubishi UFJ Morgan Stanley Securities, cho biết: “Xe điện chưa phổ biến ở Đông Nam Á, vì vậy thị trường vẫn đang ở giai đoạn hình thành giá”.

“Mitsubishi, công ty có hoạt động kinh doanh dựa vào khu vực này, không thể chậm trễ trong việc tung ra các sản phẩm điện”.

Mitsubishi sẽ đối đầu trực tiếp với các nhà sản xuất xe điện Trung Quốc đang thu hút khách hàng với giá rẻ.

SAIC Motor, có trụ sở tại Thượng Hải, bắt đầu bán xe điện năm 2019 thông qua liên doanh với tập đoàn Charoen Pokphand Group của Thái Lan, trong khi Great Wall Motors sắp tung ra một mẫu xe điện tại Thái Lan có giá dưới 10.000 USD.

Chủ tịch Takao Kato nói cần thiết cắt giảm chi phí xe điện bằng cách chia sẻ các linh kiện chung với Nissan.

“Chúng tôi sẽ cạnh tranh với các nhà sản xuất Trung Quốc trong trung và dài hạn. Mitsubishi đặt mục tiêu nâng tỷ suất lợi nhuận hoạt động tổng thể lên 6% cho năm tài chính 2025, gần với con số 6,1% năm tài chính 2015, năm đỉnh cao”.

(Theo Nikkei Asia)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ