Làn sóng bán tháo chứng khoán lan sang châu Á

MSCI châu Á - Thái Bình Dương không tính Nhật Bản giảm 0,6%, cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh nhất. Giới đầu tư lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế khi đường cong lợi suất trái phiếu Mỹ đảo chiều.
THANH LONG
15, Tháng 08, 2019 | 13:20

MSCI châu Á - Thái Bình Dương không tính Nhật Bản giảm 0,6%, cổ phiếu ngân hàng giảm mạnh nhất. Giới đầu tư lo ngại về nguy cơ suy thoái kinh tế khi đường cong lợi suất trái phiếu Mỹ đảo chiều.

MSCI châu Á - Thái Bình Dương không tính Nhật Bản giảm 0,6% trong đầu phiên 15/8. Hầu hết chỉ số chứng khoán lớn trong khu vực đều giảm hơn 1%. 

Nikkei 225 của Nhật Bản giảm 1,7%. Tại Trung Quốc, Shanghai Composite và Shenzhen Composite lần lượt giảm 1,5% và 1,9%. Hang Seng cũng mất gần 300 điểm. 

Tại Nam Á, ASX 200 của Australia giảm 2% và NZX 50 của New Zealand giảm 1,4%. 

Ngược lại, Kospi của Hàn Quốc tăng 0,6%. 

Cổ phiếu ngân hàng trên toàn khu vực giảm mạnh nhất. Tại Nhật Bản, Mitsubishi UFJ Financial Group giảm gần 1,9%, Nomura giảm 2,2%. Tại Australia, chỉ số theo dõi các cổ phiếu tài chính giảm hơn 1,5% với 4 ngân hàng lớn nhất giảm 1,8 - 2,3%.  

chung-khoan-png24-3763-1565834545

Chứng khoán châu Á bị bán tháo trong phiên 15/8. 

Làn sóng bán tháo cổ phiếu trên Phố Wall lan sang các thị trường chứng khoán châu Á trong phiên 15/8 vì lo ngại suy thoái kinh tế. Giới đầu tư bắt đầu bán mạnh các tài sản rủi ro sau khi đường cong lợi suất trái phiếu chính phủ giữa kỳ hạn 2 năm và 10 năm đảo chiều lần đầu tiên kể từ tháng 6/2007. Theo giới quan sát thị trường, đây là mức chênh lệch lớn nhất giữa 2 loại trái phiếu này và cũng là tín hiệu cảnh báo suy thoái kinh tế đáng tin cậy. 

Trên thực tế, các nền kinh tế lớn cũng đang phát đi những tín hiệu tiêu cực. Trong đó, kinh tế Đức giảm 0,1% trong quý II, và sản lượng công nghiệp tại Trung Quốc tăng với tốc độ chậm nhất trong 17 năm qua. 

(Theo Người đồng hành)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24580.00 24600.00 24920.00
EUR 26295.00 26401.00 27567.00
GBP 30644.00 30829.00 31778.00
HKD 3103.00 3115.00 3217.00
CHF 27002.00 27110.00 27956.00
JPY 159.74 160.38 167.82
AUD 15898.00 15962.00 16448.00
SGD 18065.00 18138.00 18676.00
THB 664.00 667.00 695.00
CAD 17897.00 17969.00 18500.00
NZD   14628.00 15118.00
KRW   17.74 19.37
DKK   3535.00 3666.00
SEK   2297.00 2387.00
NOK   2269.00 2359.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ