Kỳ vọng sóng cổ phiếu ngân hàng

Nhàđầutư
Ông Trần Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Chứng khoán Smart Invest khuyến nghị thời điểm này, nhà đầu tư có thể nghiên cứu những ngân hàng có năng lực tăng trưởng tốt để đầu tư mang tính chất dài hạn.
KHÁNH AN
05, Tháng 07, 2022 | 09:03

Nhàđầutư
Ông Trần Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Chứng khoán Smart Invest khuyến nghị thời điểm này, nhà đầu tư có thể nghiên cứu những ngân hàng có năng lực tăng trưởng tốt để đầu tư mang tính chất dài hạn.

bhfr

Ông Trần Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Công ty CP Chứng khoán Smart Invest (AAS). Ảnh PTC

Trao đổi trong Talk show Phố Tài chính (The Finance Street) tối 4/7, ông Trần Minh Tuấn, Phó Chủ tịch Công ty CP Chứng khoán Smart Invest (AAS) đánh giá 6 tháng cuối năm 2022, nhóm ngân hàng sẽ có sự bứt phá trở lại với nền tảng kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm vẫn rất khả quan. P/E của ngành này đang ở khoảng 10-11 lần và P/B khoảng 1,5 – mức hấp dẫn dành cho các nhà đầu tư. 

Vốn là ngành “xương sống” của nền kinh tế nên được nhiều nhà đầu quan tâm, nhưng định giá của ngành ngân hàng đã bị giảm đáng kể trong thời gian qua, ông đánh giá như thế nào về điều này?

Ông Trần Minh Tuấn: Trong năm 2020 và 2021, thị trường chứng khoán không chỉ tăng trưởng về chỉ số mà giá cổ phiếu của các doanh nghiệp cũng tăng rất mạnh, đặc biệt là ngành ngân hàng. Dù vậy, đến nửa đầu năm 2022, chứng khoán Việt Nam đã chịu tác động rất lớn bởi các yếu tố vĩ mô trên thế giới như FED tăng lãi suất, ảnh hưởng của chiến tranh, lạm phát trên toàn cầu, dẫn đến những mức sụt giảm rất đáng kể. Ngành ngân hàng cũng không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực. Tuy nhiên, mức sụt giảm giá cổ phiếu của ngành ngân hàng không lớn hơn so với những ngành khác, chỉ rơi vào khoảng từ 30-40%. Trong khi đó, đa phần các ngân hàng đều có kết quả lợi nhuận rất tốt. 

Như vậy, mức định giá trên sàn chứng khoán đang chưa phản ánh đúng tình hình kinh doanh của ngành ngân hàng?

Ông Trần Minh Tuấn: Đúng vậy, giá cổ phiếu ngân hàng đã giảm 30%-40% so với mức đỉnh của giai đoạn trước, đưa chỉ số P/E chung của ngành về từ 10-11 lần và P/B về khoảng 1,5. Đây là một mức tương đối hấp dẫn, nhà đầu tư có thể nghiên cứu xem xét những ngân hàng có năng lực tăng trưởng tốt, để đầu tư mang tính chất dài hạn.

Triển vọng ngành ngân hàng nửa cuối năm 2022 sẽ như thế nào?

Ông Trần Minh Tuấn: Tôi dự báo sẽ có một đợt mở “van” tín dụng vào giữa tháng 7/2022, điều này sẽ đưa tốc độ tăng trưởng tín dụng đạt mức 14% toàn ngành như mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, thông thường đến tháng 10 sẽ có một mức nới room tín dụng cho một số ngân hàng đạt được những chỉ tiêu mà Ngân hàng Nhà nước đề ra. Mức nới room tín dụng này có thể rất lớn nên dư địa tăng trưởng tín dụng trong thời gian tới của ngành ngân hàng sẽ được mở rộng. Khi đó tốc độ tăng trưởng về doanh thu, lợi nhuận của ngành ngân hàng trong nửa cuối năm hứa hẹn rất tốt. 

Lưu ý rằng, tỷ lệ cho vay đối với lĩnh vực chứng khoán của ngành ngân hàng cũng chỉ luôn duy trì ở mức là 5% vốn chủ của ngân hàng. Vì vậy nới room lớn hơn không có nghĩa là dòng tiền sẽ chảy thẳng vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, với việc nới room, các ngân hàng thương mại sẽ có được dư địa để cung cấp dòng tiền tín dụng cho những doanh nghiệp có năng lực sản xuất có tính chất bền vững. Các doanh nghiệp tiếp cận được dòng vốn của ngân hàng dễ dàng hơn, nên khả năng tăng trưởng, hoạt động sản xuất kinh doanh của họ chắc chắn sẽ được kích hoạt và sẽ kỳ vọng được việc tăng trưởng lớn hơn.

Tóm lại, theo tôi, ngành ngân hàng vẫn là nhóm thu hút dòng tiền rất lớn ở trên thị trường. Thanh khoản của nhóm này luôn lớn nhất, có thể chiếm 30%-40% giá trị giao dịch của toàn thị trường. Việc tăng trưởng hay sụt giảm về giá của nhóm ngân hàng sẽ tác động rất lớn đến việc thu hút dòng tiền về thị trường. Vì vậy nếu nhóm này thu hút lại được dòng tiền, thì dòng tiền chung vào thị trường cũng sẽ được cải thiện đáng kể.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ