Hơn 103 triệu liều vaccine về Việt Nam vào cuối năm

Nhàđầutư
Số lượng vaccine đã có các thỏa thuận, hợp đồng và cam kết tài trợ với tổng số gần 160 triệu liều. Hiện số lượng vaccine đã nhận là hơn 34 triệu liều, đã thực hiện tiêm được hơn 27 triệu liều. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2021, khoảng hơn 103 triệu liều vaccine về Việt Nam.
BẢO LÂM
11, Tháng 09, 2021 | 10:32

Nhàđầutư
Số lượng vaccine đã có các thỏa thuận, hợp đồng và cam kết tài trợ với tổng số gần 160 triệu liều. Hiện số lượng vaccine đã nhận là hơn 34 triệu liều, đã thực hiện tiêm được hơn 27 triệu liều. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2021, khoảng hơn 103 triệu liều vaccine về Việt Nam.

vaccine

Hơn 103 triệu liều vaccine về Việt Nam vào cuối năm. Ảnh: Trọng Hiếu.

Sáng 11/9, Thủ tướng Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19 chủ trì họp Ban Chỉ đạo để kiểm điểm công tác phòng, chống dịch trong tuần qua, đồng thời đưa gia các giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới.

Mở đầu phiên họp, Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, sau một tuần triển khai chỉ đạo của Ban Chỉ đạo, cần đánh giá xem tuần vừa qua việc tổ chức thực hiện đạt kết quả như thế nào, cái gì làm được, chưa được, từ đó phân tích nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan để bổ sung, hoàn thiện.

Trong đó, Thủ tướng cho rằng cần đánh giá thêm công tác giám sát, kiểm tra, nhất là của Ban Chỉ đạo các cấp để có thêm các biện pháp, giải pháp hiệu quả phòng, chống dịch; bên cạnh đó, đánh giá chung công tác tuyên truyền, vận động một cách sâu sắc, toàn diện để cái gì làm tốt thì phát huy, cái gì còn hạn chế, bất cập thì khắc phục, đặc biệt là phải quan tâm đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; kêu gọi, vận động nhân dân nghiêm túc chấp hành các quy định trong phòng, chống dịch hiệu quả hơn.

Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo, tỷ lệ mắc mới COVID-19 tại cộng đồng trong tuần đã giảm so với tuần trước tại một số địa phương có số mắc cao: Đà Nẵng (giảm 60%), Bình Dương (giảm 27%), Long An (giảm 3%). Số ca tử vong trung bình theo ngày trên toàn quốc giảm 30%, trong đó TP.HCM (30%), Đồng Nai (50%), Long An (30%), Tiền Giang (70%).

23 tỉnh, thành phố đang thực hiện giãn cách xã hội và tăng cường giãn cách xã hội có 8 địa phương đang kiểm soát tốt dịch bệnh; 12 địa phương đang tiếp tục lộ trình thực hiện đạt các tiêu chí kiểm soát dịch; đáng chú ý có 3 địa phương cần tiếp tục nỗ lực, triển khai quyết liệt các giải pháp phòng, chống dịch để có thể thực hiện được các tiêu chí kiểm soát dịch là TP.HCM, Bình Dương, Kiên Giang.

Số lượng vaccine đã có các thỏa thuận, hợp đồng và cam kết tài trợ với tổng số gần 160 triệu liều. Hiện số lượng vaccine đã nhận là hơn 34 triệu liều, đã thực hiện tiêm được hơn 27 triệu liều. Dự kiến từ nay đến cuối năm 2021, khoảng hơn 103 triệu liều vaccine về Việt Nam.

Bên cạnh đó, Ban chỉ đạo đã chỉ ra những hạn chế và tồn tại trong công tác phòng chống dịch COVID-19 thời gian qua. Một số xã, phường, thị trấn chưa quán triệt quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, nhất là việc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch. Nhận thức chưa đúng về xã, phường, thị trấn là pháo đài, người dân là chiến sỹ; nắm chưa đúng về các nội dung thực hiện tại xã, phường; còn thiếu việc kiểm tra giám sát việc thực hiện tại cơ sở.

Việc thực hiện giãn cách ở một số nơi chưa nghiêm, chưa triệt để, nhất là trong thời gian gần đây. Việc triển khai thực hiện an sinh xã hội còn chậm so với yêu cầu; việc cung ứng hàng hóa vẫn còn lúng túng hay thay đổi.

Một số địa phương nóng vội trong việc mở cửa trở lại, chưa có kế hoạch cụ thể đã triển khai nới lỏng giãn cách; tốc độ xét nghiệm tại một số địa phương chậm hơn tốc độ lây lan và không đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch.

Một số biện pháp chuẩn bị chưa được kỹ lưỡng, thay đổi nhanh, thiếu nhất quán, chưa đánh giá tác động và chưa chuẩn bị truyền thông gây bức xúc trong xã hội, nhất là quy định đi lại của người dân, lưu thông hàng hóa, tạo ra ách tắc cục bộ, chậm được tháo gỡ; chưa sử dụng triệt để và thống nhất các giải pháp công nghệ, gây bất tiện cho người dân, tập trung đông người.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ