Chính phủ đánh giá cao vai trò của NHNN trong điều hành chính sách tiền tệ

Năm 2019, Việt Nam đạt 12/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Như Thủ tướng nói, trong năm vừa qua nền kinh tế đã đạt những thành quả tưởng chừng như rất khó đạt được. Nhân dịp đầu Xuân năm mới, Thời báo Ngân hàng có cuộc phỏng vấn Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ.
LINH CHI
20, Tháng 01, 2020 | 10:30

Năm 2019, Việt Nam đạt 12/12 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đã đề ra. Như Thủ tướng nói, trong năm vừa qua nền kinh tế đã đạt những thành quả tưởng chừng như rất khó đạt được. Nhân dịp đầu Xuân năm mới, Thời báo Ngân hàng có cuộc phỏng vấn Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ.

Việt Nam bước vào năm 2019 với nhiều thách thức, căng thẳng thương mại giữa các nền kinh tế lớn, tình hình địa chính trị diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới… đặt ra nhiều thách thức cho điều hành ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước cho rằng Việt Nam đã đủ sức chống chọi với những tác động từ bên ngoài. Vậy, Phó Thủ tướng có đánh giá như thế nào về ý kiến này?

vuong-dinh-hue

Phó Thủ tướng Chính phủ Vương Đình Huệ

Nói về điều kiện và bối cảnh, cần phải thấy rằng nền kinh tế của chúng ta có độ mở rất lớn so với nhiều nước trên thế giới và khu vực, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu lên tới trên 200% GDP. Bởi vậy, khi thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường thì chắc chắn sẽ có những tác động tới kinh tế vĩ mô và thị trường tài chính, tiền tệ trong nước, đặt ra nhiều thách thức đối với Chính phủ. Năm 2019 cũng là năm thế giới chứng kiến những căng thẳng thương mại giữa các nước lớn, thương mại toàn cầu ở mức thấp khi xuất khẩu của nhiều nước giảm mạnh, tình hình địa chính trị diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, các tổ chức quốc tế liên tục điều chỉnh giảm dự báo tăng trưởng toàn cầu… việc điều hành của Chính phủ sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. 

Chúng ta vui mừng nhận thấy, trong năm 2019, mặc dù đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng đất nước ta vẫn tiếp tục phát triển nhanh và khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, là năm thứ 2 liên tiếp thực hiện thắng lợi 12/12 chỉ tiêu kế hoạch. Các chỉ số kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội ổn định và ngày càng được cải thiện, các cân đối lớn được đảm bảo: lạm phát kiểm soát dưới 3%, thấp xa chỉ tiêu Quốc hội đề ra; tăng trưởng GDP năm 2019 đạt trên 7%, GDP bình quân đầu người đạt gần 2.800 USD; quy mô thương mại quốc tế lần đầu vượt mốc 500 tỷ USD; dự trữ ngoại hối nhà nước tăng cao, thị trường tiền tệ, ngoại hối về cơ bản ổn định…

Nếu nhìn lại những năm gần đây, Việt Nam thuộc nhóm các quốc gia có tăng trưởng cao và ổn định hàng đầu trong khu vực và thế giới. Không những thế, chất lượng tăng trưởng cũng có chuyển biến rõ rệt nhờ sự đổi mới sâu rộng về mô hình tăng trưởng và sự vươn lên mạnh mẽ của khu vực tư nhân, thể hiện qua tốc độ tăng năng suất lao động và chỉ số Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP); sự chuyển dịch về cơ cấu và đóng góp tích cực của các ngành có lợi thế cạnh tranh, các ngành ưu tiên phát triển, ngành thân thiện với môi trường vào GDP; là điểm sáng trên toàn cầu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài; công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế tiếp tục được triển khai và ngày càng đi vào thực chất hơn với 3 trụ cột chính là tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, tăng cường kỷ luật ngân sách cùng với việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức của hệ thống chính trị nhờ đó đã tạo bệ phóng vững chắc cho tăng trưởng cao và bền vững... 

Có được những kết quả như vậy là nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc có trách nhiệm của các bộ, ngành. Với phương châm Chính phủ kiến tạo, thời gian qua Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo các bộ, ngành tập trung xây dựng, kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, thực hiện tốt vai trò bà đỡ cho doanh nghiệp trong việc hình thành và thúc đẩy các xung lực để chuyển dịch mạnh mẽ mô hình tăng trưởng tận dụng thời cơ từ cuộc cách mạng khoa học công nghệ để từ đó có sự thăng tiến cao hơn, tham gia sâu hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu, tăng tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế. 

Song song với việc nâng cao năng lực quản trị nhà nước, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tập trung phát triển đồng bộ các loại thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước cũng được Chính phủ sâu sát chỉ đạo, có chuyển biến quan trọng, tích cực, quản trị doanh nghiệp nói chung và quản lý tài chính doanh nghiệp đã có những biến chuyển cơ bản và thực chất, năng lực cạnh tranh và hiệu quả sử dụng vốn đã được cải thiện đáng kể.

Chính phủ đã chỉ đạo NHNN tập trung xây dựng các giải pháp, cơ chế để trình Quốc hội thông qua Nghị quyết 42, qua đó tạo nền tảng vững chắc cho NHNN chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành triển khai quyết liệt và đồng bộ các giải pháp để cơ bản hoàn thành các hạng mục của Đề án cơ cấu lại hệ thống TCTD gắn với xử lý nợ xấu.

Trên cơ sở Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành tập trung cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khơi thông và giải phóng các nguồn lực của xã hội để phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, trong đó chú trọng phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân có tầm ảnh hưởng trong nước và khu vực, đưa kinh tế tư nhân Việt Nam lên một tầm cao mới, có sức cạnh tranh, khả năng hội nhập với khu vực và thế giới. Cải thiện mạnh mẽ chất lượng thể chế, hoàn thiện chính sách pháp luật theo hướng minh bạch, lành mạnh, an toàn và hiệu quả hơn, thúc đẩy pháp quyền, bảo đảm hài hòa phát triển kinh tế và công bằng xã hội…

Chính vì vậy, lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã có những đánh giá, ghi nhận; nhiều chuyên gia, các tổ chức trong nước và quốc tế đã đánh giá về khả năng chống chọi của nền kinh tế Việt Nam, trước những tác động từ bên ngoài, từ đó nâng cao vị thế và tiềm lực quốc gia. Tuy nhiên, với độ mở cửa nền kinh tế lớn và những diễn biến khó lường của kinh tế thế giới và những tồn tại, hạn chế của nền kinh tế trong nước, không thể chủ quan trong điều hành. Chính phủ vẫn kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô cũng như tiếp tục chỉ đạo điều hành toàn diện các mặt kinh tế, xã hội.

Năm 2019, Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở mức 6,6-6,8% và lạm phát kiểm soát ở mức dưới 4%. Thực tế, chúng ta đã đạt được mức tăng trưởng cao hơn và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra. Phó Thủ tướng có thể đánh giá và bình luận về kết quả này?

Về tăng trưởng kinh tế, năm nay chúng ta đạt mức 7,02%, vượt so với chỉ tiêu Quốc hội đặt ra (6,6%) nhờ các nền tảng kinh tế vĩ mô ngày càng được củng cổ ổn định vững chắc hơn, năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và chất lượng tăng trưởng tiếp tục được cải thiện. Nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế tiếp tục được duy trì, các phân khúc của thị trường tài chính tiếp tục là mạch máu lưu thông vốn quan trọng để thúc đẩy đầu tư phát triển cho nền kinh tế. Năm 2019, tăng trưởng tín dụng đạt khoảng trên 13%, quy mô dư nợ tín dụng cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng ở mức trên 130% GDP, tỷ lệ vốn hóa của thị trường chứng khoán ước đạt khoảng 90% GDP.

Mặt khác, năng suất lao động tiếp tục xu hướng cải thiện tích cực, tăng 5,9%; trong đó đóng góp của TFP đạt 42,7%. Cơ cấu lại nền kinh tế đi vào thực chất hơn; các ngành, lĩnh vực là xung lực cho tăng trưởng tiếp tục duy trì đà phát triển ổn định, tích cực. Xuất khẩu tăng khoảng 7,9%; xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng mạnh; năm thứ tư liên tiếp đạt xuất siêu trong thương mại quốc tế. 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2019 chỉ tăng 2,79%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu Quốc hội đề ra và là mức tăng thấp nhất trong vòng 3 năm trở lại đây. Nhìn lại thời điểm cuối năm 2018 và đầu năm 2019, tình hình nền kinh tế đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức với xu hướng giá dầu tăng khá cao trước đó (tăng bình quân 28,3% trong năm 2018 so với năm 2017), dịch tả lợn châu Phi bùng phát ở nhiều địa phương, tiềm ẩn nguy cơ khó lường lên mục tiêu kiểm soát lạm phát, trong khi đó chúng ta vẫn trong quá trình điều chỉnh tăng giá các mặt hàng Nhà nước quản lý phù hợp với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Có được kết quả này là nhờ Chính phủ và Ban chỉ đạo điều hành giá đã chỉ đạo các bộ, ngành theo dõi sát sao diễn biến thị trường, đưa ra nhiều kịch bản điều hành nhằm đảm bảo kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đặt ra (dưới 4%). Về phía chính sách tiền tệ đã được NHNN điều hành linh hoạt, khéo léo, kiểm soát lạm phát cơ bản ở mức bình quân 2% so với năm 2018. Chính phủ cũng chỉ đạo các bộ, ngành theo dõi, nắm bắt và dự báo chính xác, kịp thời diễn biến thị trường, cung cầu, giá cả hàng hóa trong và ngoài nước để có biện pháp bình ổn thị trường phù hợp, nhất là với các mặt hàng thiết yếu như thịt lợn, vật liệu xây dựng, xăng dầu, tính toán liều lượng và lộ trình điều chỉnh giá Nhà nước quản lý hợp lý, khoa học theo nhiều kịch bản khác nhau bám sát nguyên tắc vận hành thị trường.

Kết quả kiểm soát lạm phát ở mức 2,79% phù hợp với mục tiêu dưới 4% Quốc hội đã đề ra, nhưng đồng thời giá một số dịch vụ Nhà nước quản lý tiếp tục được điều chỉnh dần theo lộ trình tiến tới giá thị trường. Có thể nói đây là đạt được mục tiêu kép. Và chỉ tiêu lạm phát được kiểm soát thấp trong khi tăng trưởng kinh tế đạt mức cao, cho thấy thu nhập thực tế của chúng ta có sự cải thiện. 

Phó Thủ tướng đánh giá thế nào về vai trò của chính sách tiền tệ trong ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là trong điều hành lượng cung tiền, lãi suất, tỷ giá trong bối cảnh nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới liên tục hạ lãi suất chính sách và tung ra các gói kích thích kinh tế? 

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đánh giá cao vai trò của NHNN trong việc đã khéo léo điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý trong giai đoạn gần đây, đặc biệt là trong năm 2019. Quy luật vận hành thị trường và kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới đã chỉ ra việc kiểm soát tiền tệ ở mức hợp lý đóng vai trò có tính chất quyết định đến việc ổn định lạm phát trong trung hạn. 

Các giải pháp và công cụ chính sách tiền tệ được sử dụng linh hoạt, đặc biệt là sự phối hợp đồng bộ để giữ vững được sự ổn định thị trường tiền tệ, kiểm soát được lạm phát kỳ vọng, neo giữ được sự ổn định lãi suất, tỷ giá và thị trường ngoại hối về cơ bản ổn định, diễn biến tích cực, vị thế VND được củng cố vững chắc, lộ trình chống đô la hoá tiếp tục được thực hiện, đồng VND là một trong các đồng tiền có mức biến động thấp nhất trong khu vực.

Nhờ đó dự trữ ngoại hối Nhà nước đạt mức kỷ lục gần 80 tỷ đô la, củng cố vị thế, tiềm lực và uy tín quốc gia, tạo điều kiện gia tăng và mở rộng cả bề rộng lẫn chiều sâu các hoạt động đối ngoại và vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Và có thể đánh giá rằng việc điều hành chính sách tiền tệ là một điểm sáng trong điều hành kinh tế vĩ mô, nhất là điểm sáng này đạt được trong bối cảnh thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu biến động đầy bất trắc, rủi ro và bất ổn thương mại toàn cầu gia tăng. 

Tính chủ động của NHNN thể hiện ở chỗ các động thái điều hành đều bám sát diễn biến thị trường quốc tế và trong nước. Năm 2019, trước bối cảnh có đến 64 ngân hàng trung ương trên thế giới tiến hành 148 lượt hạ lãi suất điều hành khi nhiều nền kinh tế lớn và kinh tế toàn cầu có dấu hiệu giảm tốc, thậm chí có nhiều cảnh báo về khả năng suy thoái toàn cầu, NHNN đã linh hoạt cắt giảm các mức lãi suất điều hành, tạo điều kiện hỗ trợ nền kinh tế, hỗ trợ thanh khoản, giảm chi phí vốn cho hệ thống TCTD. Đồng bộ với chính sách đó, thực hiện chủ trương của Chính phủ, NHNN đã chỉ đạo TCTD chủ động cân đối khả năng tài chính, tiết giảm chi phí để áp dụng lãi suất cho vay hợp lý; đồng thời điều tiết, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản cho TCTD.

Việc điều hành tín dụng tiếp tục được NHNN kiên định với chủ trương thận trọng, gắn với chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế và thị trường tài chính. Theo đó, tín dụng được kiểm soát chặt chẽ, giảm dần qua các năm cả về tốc độ tăng trưởng, dòng vốn tín dụng được tập trung phân bổ vào lĩnh vực sản xuất, ưu tiên cho phát triển, hỗ trợ thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế thay đổi về chất, đi vào chiều sâu, đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế đi vào thực chất hơn.

Ngoài ra, điều hành tín dụng còn gắn với công tác tái cơ cấu hệ thống TCTD và xử lý nợ xấu (là nhiệm vụ trọng tâm, then chốt và xuyên suốt của ngành Ngân hàng trong thời gian qua) nhờ đó an toàn hoạt động của hệ thống TCTD được nâng lên một bước, tiệm cận dần với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Với sự quyết liệt trong chỉ đạo của NHNN và nỗ lực triển khai của các TCTD, nợ xấu được kiểm soát và xử lý hiệu quả, tỷ lệ nợ xấu duy trì dưới 2% theo đúng mục tiêu đề ra.

Năm 2019, NHNN đã có nhiều giải pháp triển khai Nghị quyết 42 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD, Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020” theo Quyết định 1058 của Thủ tướng và các giải pháp đồng bộ nhằm củng cố, lành mạnh hóa hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân, đảm bảo an toàn hệ thống.

Không chỉ chủ động điều hành, NHNN còn có sự phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành điều hành chính sách vĩ mô liên quan cũng như phối hợp chặt chẽ với các địa phương. Chính phủ đánh giá cao NHNN thời gian qua đã liên tục chủ động chủ trì cùng các bộ, ngành, địa phương tổ chức nhiều hội nghị về công tác tín dụng đối với các đối tượng ưu tiên, đối tượng chính sách; các Hội nghị kết nối ngân hàng - doanh nghiệp để nắm bắt thực tiễn, lắng nghe kiến nghị của doanh nghiệp để chỉ đạo kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn ngân hàng thuận lợi, phục hồi và phát triển sản xuất, kinh doanh.

Đây thực sự là nỗ lực rất đáng biểu dương, là hành động thực tiễn, quyết liệt của ngành Ngân hàng nhằm thực hiện chủ trương của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc xây dựng Chính phủ liêm chính, kiến tạo. Từ các hội nghị tiếp xúc này, nhiều chính sách, chương trình, sản phẩm tín dụng ưu đãi, hỗ trợ doanh nghiệp, ngành hàng và các đối tượng chính sách đã được ban hành và phát huy hiệu quả. 

Năm 2019, tỷ lệ nợ công so với GDP đã giảm, nhưng tổng giá trị nợ tuyệt đối vẫn lớn và chi thường xuyên vẫn chiếm tỷ lệ cao so với chi cho đầu tư phát triển, vẫn còn bội chi ngân sách; đồng thời giải ngân vốn đầu tư công còn chậm. Chính phủ đã xử lý vấn đề này như thế nào?

Thời gian qua, thâm hụt ngân sách Nhà nước vẫn ở mức cao; trong khi nhu cầu đầu tư từ nguồn vốn đầu tư công cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội tiếp tục gia tăng trong thời gian tới là nguyên nhân chủ yếu dẫn tới áp lực phải tiếp tục duy trì bội chi và nợ công cao.

Hiện nay, tốc độ vay đã giảm hơn một nửa so với giai đoạn trước (giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng nợ công ở mức hơn 8%, trong khi giai đoạn 2011-2015 là 18,6%, cao gấp 3 lần so với tốc độ tăng trưởng kinh tế). Do đó, tỷ lệ nợ công trong thời gian tới đây sẽ có xu hướng giảm dần (năm 2016, tỷ lệ nợ công là 64,73% GDP, nhưng đến năm 2019 dự kiến là 56,1% GDP và năm 2020 dự báo chỉ còn khoảng 54,3% GDP).

Chúng ta đang triển khai nhiều giải pháp đồng bộ về quản lý nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; kéo tỷ lệ nợ công/GDP và tỷ lệ trả nợ/thu ngân sách xuống mức an toàn. Tuy nhiên, đây mới là bước đầu và không tránh khỏi quy mô nợ vẫn còn cao bởi nhu cầu đầu tư, phát triển đất nước vẫn còn rất lớn. Chính phủ đã khẳng định nhiều lần đối với vấn đề nợ công, quan trọng nhất là khả năng trả nợ.

Mặt khác, chúng ta đang đẩy mạnh giảm tỷ trọng chi thường xuyên (năm 2016 là 63,3%, năm 2017 là 64,9%, năm 2018 là 61,8%, năm 2019 là 61,2%, năm 2020 dự báo là 60,5%). Đồng thời, việc giảm chi thường xuyên nhưng vẫn đảm bảo nguồn thực hiện cải cách tiền lương với mức tăng khoảng 7%/năm theo Nghị quyết của Quốc hội và các nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, chính sách an sinh xã hội cấp bách khác… 

Trong năm 2019, việc giải ngân vốn đầu tư công vẫn không có nhiều chuyển biến tích cực. Vào tháng 9/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 94/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2019. Đây là Nghị quyết thứ 3 của Chính phủ trong nhiệm kỳ này để tập trung khơi thông nguồn lực đầu tư quan trọng nhất của đất nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và xóa đói giảm nghèo.

Thời gian tới, việc quản lý nợ công và cơ cấu lại nợ công đến năm 2020 và giai đoạn 5 năm tiếp theo cần được tiếp tục triển khai đồng bộ với việc thực hiện các mục tiêu, giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh; trong đó, có cơ cấu lại ngân sách nhà nước, đầu tư công, doanh nghiệp nhà nước và TCTD. Chúng ta phải tiếp tục kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ công.

Việc nghiên cứu, đề xuất các ngưỡng an toàn nợ cho giai đoạn 5 năm tới cần được đánh giá hết sức thận trọng, không chỉ tập trung vào quy mô nợ so với GDP mà còn phải phù hợp với khả năng chi trả nợ của ngân sách nhà nước, ưu tiên tạo thêm dư địa để bố trí nguồn lực ngân sách cho đầu tư phát triển. Đồng thời, chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong mọi khâu thực hiện đầu tư công như bố trí vốn, giao vốn, đấu thầu, giải phóng mặt bằng, thi công, quyết toán, nghiệm thu… qua đó thúc đẩy đầu tư công, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn; trong đó có vốn vay.

Bên cạnh đó, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo triển khai hiệu quả các Đề án phát triển thị trường vốn trong nước, thị trường TPCP cả về chiều rộng và chiều sâu theo hướng đa dạng hóa công cụ nợ và mở rộng cơ sở nhà đầu tư, ưu tiên phát triển nhà đầu tư dài hạn; từng bước nâng cao mức vốn hóa thị trường để khai thông kênh dẫn vốn, đặc biệt là vốn dài hạn, cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán, qua đó giảm tải dần cho hệ thống TCTD để xây dựng được hệ thống tài chính lành mạnh hơn, bền vững hơn; đồng thời thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn, thị trường trái phiếu, kiểm soát chặt chẽ hạn mức nợ nước ngoài theo phương thức tự vay tự trả của doanh nghiệp và TCTD.

Cùng với đó, Luật Đầu tư công (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua vào tháng 6/2019, có hiệu lực từ đầu năm 2020 đơn giản hóa trình tự, thủ tục quyết định chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án, phân cấp thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối nguồn vốn, là vướng mắc lớn nhất trong quá trình thực hiện Luật Đầu tư công. Việc phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư sẽ làm tăng tính chủ động, phù hợp với điều kiện thực tế của mỗi địa phương. Đổi mới mạnh mẽ phương thức kế hoạch hóa cũng góp phần đơn giản hóa mạnh mẽ quy trình giao kế hoạch vốn đầu tư công hàng năm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công và nâng cao tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công.

Nhiều năm nay, Chính phủ luôn đồng hành với doanh nghiệp, nhà đầu tư. Nhiều cải cách và chính sách mới đã hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh, từ cải cách hành chính cho đến lãi suất ưu đãi… Năm nay, Chính phủ có thông điệp gì đến cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân? 

Thông điệp mà tôi muốn nhấn mạnh đó là Chính phủ sẽ luôn kiên định với mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và luôn coi đây là mục tiêu xuyên suốt cho năm 2020 và những năm tiếp theo. Bởi việc kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tạo lập môi trường kinh doanh tốt cho doanh nghiệp và người dân. 

Thông điệp thứ hai đó là Chính phủ sẽ tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện quyết liệt công tác cải cách hành chính, mà trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, loại bỏ các thủ tục hành chính gây cản trở đến hoạt động của doanh nghiệp nhằm tạo thuận lợi tối đa cho phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giải phóng các nguồn lực, tạo niềm tin, khơi dậy động lực đổi mới, sáng tạo cho phát triển (đã cắt giảm được trên 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành; cắt giảm một số chi phí doanh nghiệp; thủ tục về thuế và hải quan đã được đẩy mạnh thông qua việc áp dụng, hiện đại hóa; triển khai hệ thống khai thuế qua mạng và nộp thuế điện tử; đã kết nối cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN để tạo thuận lợi thương mại…). Ban hành nhiều cơ chế, chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho đầu tư, sản xuất kinh doanh (như Nghị quyết số 35, 19, 02, 139; Quyết định số 1362; Chỉ thị số 26, 10, 09…).

Công tác xây dựng Chính phủ điện tử được triển khai từng bước với nhiều thủ tục hành chính, bảo đảm công khai, minh bạch, tiết kiệm chi phí và phòng, chống tiêu cực, tham nhũng (đưa nhiều hệ thống đi vào hoạt động như Cổng dịch vụ công quốc gia; Trục liên thông văn bản quốc gia…). Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã chỉ đạo cắt giảm các đợt thanh tra chuyên ngành; kiểm tra và kiểm toán theo hướng lồng ghép, phối hợp và có kế thừa kết quả hoạt động của các cơ quan.

Chính phủ cũng đã chỉ đạo Bộ Công an không hình sự hóa các quan hệ kinh tế. Đồng thời xử lý nghiêm những doanh nghiệp vi phạm pháp luật như trốn thuế, buôn bán hàng cấm, hàng giả, gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa, vi phạm sở hữu trí tuệ, bản quyền, vi phạm pháp luật về môi trường để đảm bảo bình đẳng và quyền lợi cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Thời gian tới, cộng đồng doanh nghiệp và doanh nhân Việt Nam cần thể hiện bản lĩnh, ý chí, sức sáng tạo, phấn đấu vươn lên hơn nữa, vượt qua khó khăn thách thức, không ngừng học hỏi, đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu và phát triển, tăng cường ứng dụng công nghệ mới, phương pháp quản lý hiện đại, đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ, làm tốt công tác quảng bá, tiếp thị, chiếm lĩnh thị trường trong nước và ngày càng thâm nhập sâu rộng vào thị trường quốc tế, khu vực. Chúng ta nhận thức sâu sắc rằng, xây dựng được những thương hiệu Việt mạnh chính là phát huy mạnh mẽ lòng yêu nước, thể hiện khát vọng dân tộc xây dựng một nền kinh tế tự cường.

Để thực hiện thành công mục tiêu này, trước hết đòi hỏi sự nhất trí, đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội, doanh nhân, sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị, của Đảng, Nhà nước, các bộ, ngành, địa phương với tinh thần ủng hộ, bảo vệ doanh nghiệp làm ăn chân chính, nghiêm túc; bảo vệ quyền tài sản, quyền đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp.

Tôi rất mong muốn “khát vọng làm giàu, khát vọng vươn lên” sẽ được lan tỏa tới mọi người dân Việt Nam; chúng ta sẽ đóng góp nhiều hơn nữa sức lực, trí tuệ, của cải của mình để xây dựng và phát triển đất nước, đặc biệt là thế hệ trẻ sẽ là tầng lớp ưu tú đưa đất nước phát triển lớn mạnh, góp sức để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh hơn, phát triển thịnh vượng hơn.

Xin trân trọng cảm ơn Phó Thủ tướng!

Theo Thời báo ngân hàng

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25175.00 25177.00 25477.00
EUR 26671.00 26778.00 27961.00
GBP 31007.00 31194.00 32152.00
HKD 3181.00 3194.00 3297.00
CHF 27267.00 27377.00 28214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16215.00 16280.00 16773.00
SGD 18322.00 18396.00 18933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18215.00 18288.00 18819.00
NZD   14847.00 15342.00
KRW   17.67 19.30
DKK   3582.00 3713.00
SEK   2293.00 2380.00
NOK   2270.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ