Cần chia sẻ rủi ro để phát triển điện gió ngoài khơi

Nhàđầutư
Ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Giám đốc Trung tâm NLTT Bộ Công Thương cho rằng, để tận dụng tối đa tiềm năng điện gió cần có cơ chế hỗ trợ và cơ chế chia sẻ rủi ro, đảm bảo cho nhà đầu tư tư nhân.
KHÁNH AN
09, Tháng 12, 2021 | 08:58

Nhàđầutư
Ông Nguyễn Anh Tuấn, nguyên Giám đốc Trung tâm NLTT Bộ Công Thương cho rằng, để tận dụng tối đa tiềm năng điện gió cần có cơ chế hỗ trợ và cơ chế chia sẻ rủi ro, đảm bảo cho nhà đầu tư tư nhân.

Screen Shot 2021-12-09 at 9.03.00 AM

Ảnh minh hoạ: Internet

Chia sẻ tại toạ đàm "Đầu tư điện gió trong bối cảnh mới", ngày 8/12 tại Hà Nội, ông Nguyễn Văn Vy – Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho biết về lĩnh vực thủy điện, Việt Nam có 10 lưu vực sông lớn phân bố từ Bắc đến Nam và có thể phát công suất lên tới 27,4 GW, trong đó quy mô lớn (>100 MW) phát khoảng 14,6 GW. Tuy nhiên, về cơ bản các dự án lớn đã phát triển gần hết và hiện tại đang phát triển các dự án nhỏ. Dự kiến trong một vài năm tới tiềm năng về thủy điện của Việt Nam cũng sẽ được khai thác hết.

Riêng đối với điện gió, tiềm năng của Việt Nam trong lĩnh vực này là rất lớn, trong đó tiềm năng điện gió trên bờ là 217 GW còn tiềm năng điện gió ngoài khơi là 160 GW.

Ông Vy cho biết, trọng tâm chuyển đổi phát triển năng lượng giai đoạn 2030-2050 của Việt Nam sẽ tập trung vào phát triển điện sạch, khi kết hợp với công nghệ số giúp tận dụng tối đa lượng điện năng lượng tái tạo (NLTT), chi phí ngày càng thấp. Theo đó, thúc đẩy phát triển NLTT, đặc biệt là điện gió là giải pháp tối ưu.

Phân tích thêm, ông Nguyễn Anh Tuấn – chuyên gia năng lượng, nguyên Giám đốc Trung tâm NLTT Bộ Công Thương cho biết, tính đến 31/10, có 84 nhà máy điện gió với tổng công suất khoảng 4.000MW; điện mặt trời có 120 nhà máy với công suất 8.300 MW; điện mặt trời mái nhà với hơn 105.000 hệ thống có tổng công suất 9.750 MW, sinh khối có 9 nhà máy với tổng công suất 520 MW, thủy điện nhỏ 2.200 MW. Từ đó nâng tổng công suất NLTT tính đến hết tháng 10/2021 lên 24.750 MW. Tổng mức đầu tư NLTT đã lên đên 26 tỷ USD

Theo ông Tuấn, đối với điện gió, có nhiều phân tích chỉ ra tiềm năng lĩnh vực này rất lớn, nhưng cần hiểu rằng đây là tiềm năng kỹ thuật chứ chưa phải tiềm năng kinh tế. Ông Tuấn cho rằng trong thời gian tới, cần phải hỗ trợ, tìm kiếm chính sách, công cụ mạnh hơn để đẩy nhanh phát triển điện gió, đặc biệt là điện gió ngoài khơi.

“Hiện chúng ta đang ở giai đoạn chuẩn bị để phát triển điện gió, và trong 5-10 năm nữa sẽ bước sang giai đoạn cất cánh. Để tận dụng tối đa tiềm năng cần có cơ chế tài chính, hỗ trợ mang tính chất bền vững với mục tiêu rõ ràng, phát triển công nghệ và cần có cơ chế chia sẻ rủi ro, đảm bảo cho nhà đầu tư tư nhân trong vấn đề phát triển điện gió”, chuyên gia này đề xuất.

Cụ thể, theo ông Tuấn sự hỗ trợ mang tính ổn định cho việc phát triển một nền công nghiệp phải mang tính chất ổn định và dài hạn. Chia sẻ rủi ro có nghĩa là trong trường hợp không thể kiểm soát như không thể phát điện hoặc đấu nối, thì cần có sự hỗ trợ tương đối từ Nhà nước như gia hạn hoặc đề ra những cơ chế chính sách an tâm cho nhà đầu tư bởi vốn đầu tư cho NLTT rất lớn.

Ở góc độ của nhà đầu tư, ông Nguyễn Đức Cường – chuyên gia cao cấp về năng lượng của tập đoàn T&T cho biết Việt Nam có tiềm năng điện gió rất lớn, trong đó điện gió ngoài khơi vẫn là lĩnh vực còn rất mới mẻ nên với sự phát triển công nghệ, giảm giá thành cùng với xu thế chuyển dịch năng lượng, ngành công nghiệp điện gió ngoài khơi sẽ sớm phát triển mạnh mẽ trong tương lai.

"Gắn với cam kết của Việt nam tại COP26, điện gió ngoài khơi đến năm 2030 cần đạt 10GW, quy mô này sẽ giúp định hình ngành công nghiệp phù trợ nội địa, giảm chi phí đầu tư. Tuy nhiên việc khai thác lĩnh vực này cần sự quan tâm, hỗ trợ mạnh mẽ của Chính phủ", ông Cường nói.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25155.00 25161.00 25461.00
EUR 26745.00 26852.00 28057.00
GBP 31052.00 31239.00 32222.00
HKD 3181.00 3194.00 3300.00
CHF 27405.00 27515.00 28381.00
JPY 159.98 160.62 168.02
AUD 16385.00 16451.00 16959.00
SGD 18381.00 18455.00 19010.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18134.00 18207.00 18750.00
NZD   14961.00 15469.00
KRW   17.80 19.47
DKK   3592.00 3726.00
SEK   2290.00 2379.00
NOK   2277.00 2368.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ