[Café Cuối tuần] Làm sao để bình ổn giá vàng?

Nhàđầutư
Giá vàng miếng SJC tăng cao trong bối cảnh triển vọng các kênh đầu tư khác kém, lãi suất tiết kiệm giảm. Nếu người dân dồn tiền mua vàng sẽ khiến nguồn lực để tái đầu tư phát triển kinh tế không được tối ưu.
PGS-TS. NGUYỄN HỮU HUÂN*
30, Tháng 12, 2023 | 10:12

Nhàđầutư
Giá vàng miếng SJC tăng cao trong bối cảnh triển vọng các kênh đầu tư khác kém, lãi suất tiết kiệm giảm. Nếu người dân dồn tiền mua vàng sẽ khiến nguồn lực để tái đầu tư phát triển kinh tế không được tối ưu.

Empty

Giá vàng tăng mạnh trong 2 tháng cuối năm, ảnh minh họa: Trọng Hiếu

Trong những ngày cuối năm, giá vàng miếng SJC như đang nhảy múa, có lúc vượt 80 triệu đồng/lượng, có lúc về 76 – 77 triệu đồng/lượng, chênh lệch 3 triệu đến 4 triệu đồng mỗi lượng chỉ trong vài ngày. Dù hạ nhiệt nhưng giá vàng miếng vẫn đang neo ở mức rất cao.

Giá vàng trong nước gần như đi ngang trong 10 tháng đầu năm và bắt đầu tăng giá mạnh trong 2 tháng cuối năm. So với đầu năm, giá vàng tăng gần 18% và so với đầu tháng 11 thì tăng 13%.

Trong bối cảnh các kênh đầu tư trong nước dường như không mang lại kỳ vọng về lợi nhuận như bất động sản đóng băng, chứng khoán bấp bênh còn gửi tiết kiệm thì lãi suất về mức thấp kỷ lục, kênh đầu tư vàng nổi lên như là một điểm sáng.

Fed giảm lãi suất trong thời gian tới làm đồng USD yếu đi được kỳ vọng sẽ đưa giá vàng vào một chu kỳ tăng giá mới. Điều này đã làm cho cơn sốt giá vàng quay trở lại ở Việt Nam sau một thời gian dài trầm lắng. Bên cạnh đó, tại Việt Nam đang tồn tại sự độc quyền sản xuất vàng miếng SJC, nguồn cung hạn chế càng đẩy giá vàng miếng lên cao.

Trước sự nóng sốt của giá vàng gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo NHNN phải can thiệp và bình ổn thị trường vàng để đảm bảo tính ổn định cho loại hàng hóa đặc biệt này và tránh tình trạng đầu cơ gây ảnh hưởng xấu đối với ổn định tiền tệ và vĩ mô.

Chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ nhằm tránh tình trạng nền kinh tế trở nên vàng hóa hay đô la hóa. Bởi, nền kinh tế sẽ không thể tái đầu tư nguồn lực khi mọi thu nhập của người dân đều chuyển sang vàng. Và việc chống vàng hóa trong nền kinh tế cũng là một nhiệm vụ hết sức quan trọng để chuyển nguồn lực sang nền kinh tế thực, tận dụng tối đa các nguồn lực, đặc biệt là nguồn vốn từ trong dân cư để tái đầu tư và phát triển kinh tế.

Phải nhấn mạnh rằng vàng luôn là một niềm cảm hứng và sự thu hút bất tận của nhân loại kể từ thời sơ khai cho đến nay, không bởi chỉ giá trị về mặt vật chất mà từ lâu vàng đã trở thành một biểu tượng cho sự giàu sang phú quý của người nắm giữ. Mặc dù các NHTW trên thế giới cố gắng loại bỏ vàng khỏi lưu thông và không xem nó như là một loại tiền tệ kể từ khi hệ thống Breton Wood hình thành và sụp đổ. Tuy nhiên, vàng vẫn thể hiện được giá trị khi là một hàng hóa đặc biệt được nhiều người săn đón nhất trên thế giới.

Ở Việt Nam, từ lâu người dân đã có thói quen mua vàng, đặc biệt là vào các dịp lễ tết để tích trữ và đầu tư, chính vì thế, nhu cầu tiêu thụ vàng của Việt Nam luôn lọt top của thế giới. Thị trường vàng đã trải qua khá nhiều các thăng trầm trong quá trình hoạt động lộ diện nhiều tồn tại, hạn chế gây bất ổn cho nền kinh tế vĩ mô. Do vậy, từ 2012, Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng được ban hành thì NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng, qua thời gian đã chứng minh hiệu quả bằng sự ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Tuy nhiên, cũng chính từ sự độc quyền phát hành vàng miếng SJC mà chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới bắt đầu nới rộng. Dữ liệu lịch sử cho thấy sự chênh lệch này bộc lộ rõ từ năm 2020 trở đi, giá vàng trong nước đang dần bỏ xa thế giới và hiện nay đã lên đến hơn 16 - 18 triệu đồng/lượng. Trong khi đó, giá vàng nhẫn 9999 của các thương hiệu còn lại (về bản chất là cùng 1 loại sản phẩm với hàm lượng khoa học như nhau chỉ khác nhau về thương hiệu và tên gọi cũng như thiết kế) vẫn tiệm cận với giá thế giới.

Điều này cho thấy một sự bất cập trên thị trường hiện tại và vấn đề cũng đã được nhiều chuyên gia kiến nghị.

Sẽ có hai cách để bình ổn thị trường vàng hiện tại. Cách thứ nhất là nhập khẩu vàng để sản xuất nhiều vàng miếng SJC hơn, khi nguồn cung dồi dào thì giá bắt đầu bình ổn trở lại. Tuy nhiên, việc này không được khuyến khích do dự trữ ngoại hối Việt Nam không cao và cần cho những việc cần thiết hơn như bình ổn tỷ giá. Trong khi việc tìm kiếm nguồn nguyên liệu vàng trong nước gia tăng sản xuất vàng miếng SJC đối với NHNN không dễ vì NHNN không phải là đơn vị thu mua vàng từ dân chúng như các đơn vị kinh doanh bán lẻ vàng. Nên có cơ chế cho NHNN thu mua thông qua các công ty kinh doanh vàng để chủ động đáp ứng được nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất vàng miếng.

Giải pháp thứ 2, cũng là giải pháp về lâu dài, đó là cho phép nhiều đơn vị kinh doanh vàng tham gia vào gia công và sản xuất vàng miếng hơn. Điều này sẽ giúp cho thị trường vàng miếng chuyển từ độc quyền sang độc quyền nhóm hoặc cạnh tranh. Việc giảm độc quyền sẽ giúp gia tăng tính cạnh tranh và từ đó, xác lập được mức giá hợp lý hơn, hạn chế các hiện tượng đầu cơ hay lũng đoạn thị trường. Việc đưa thị trường vàng trở lại thành thị trường cạnh tranh là một giải pháp cần được cân nhắc, nhất là khi Việt Nam đang cố gắng được các quốc gia trên thế giới công nhận là một nền kinh tế thị trường.

Song, việc chuyển mô hình của thị trường từ độc quyền sang cạnh tranh cũng cần có lộ trình và bước đi phù hợp, bởi thị trường vàng là một thị trường của niềm tin và sự uy tín. Khâu quản lý, giám sát cũng như cấp phép sản xuất và kinh doanh vàng miếng cũng phải thật sự nghiêm ngặt để nâng cao tính minh bạch cũng như đảm bảo không có đơn vị nào làm ăn gian dối gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Trong quá khứ, việc các đơn vị kinh doanh vàng bán vàng thiếu tuổi, vàng non diễn ra thường xuyên và gây thiệt hại không nhỏ đối với người tiêu dùng, chính vì thế, nếu chúng ta cho phép thị trường vàng cạnh tranh, thì khâu quản lý thị trường là một vấn đề hết sức quan trọng và cần phải có sự tham gia của nhiều bộ ngành.

*  PGS-TS Nguyễn Hữu Huân, Đại học Kinh tế TP.HCM.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ