Áp dụng báo cáo ESG: Hướng đi nào cho doanh nghiệp Việt?

Nhàđầutư
Mặc dù cam kết ESG ở Việt Nam là đáng khen ngợi, số liệu từ các báo cáo vẫn cho thấy tồn tại khoảng cách lớn giữa kỳ vọng và hành động. Điều này đòi hỏi các giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh triển khai ESG trong các doanh nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.
LÊ THỊ HƯƠNG TRÀ (*)
25, Tháng 03, 2024 | 06:50

Nhàđầutư
Mặc dù cam kết ESG ở Việt Nam là đáng khen ngợi, số liệu từ các báo cáo vẫn cho thấy tồn tại khoảng cách lớn giữa kỳ vọng và hành động. Điều này đòi hỏi các giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh triển khai ESG trong các doanh nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

image-1_The-ESG-Reporting-Frameworks-and-Standards-Explained

Vẫn còn khoảng khách lớn giữa kỳ vọng và hành động về áp dụng ESG trong doanh nghiệp ở Việt Nam. Ảnh minh hoạ: Internet

ESG là một khái niệm ngày càng được quan tâm trong lĩnh vực kinh doanh và tài chính. ESG là viết tắt của Environmental (Môi trường), Social (Xã hội) và Governance (Quản trị). Đây là ba yếu tố quan trọng đánh giá hiệu quả và bền vững của một doanh nghiệp, và cũng phản ánh sự tương tác của doanh nghiệp với cộng đồng và môi trường xung quanh.

Trong xu thế toàn cầu đang chuyển hướng sang phát triển bền vững và thực hành kinh doanh có trách nhiệm, ngày càng nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam đã có những động thái tích cực như công bố báo cáo ESG, cam kết thực hành ESG, nhằm không bỏ lỡ các cơ hội cũng như phòng ngừa rủi ro liên quan đến ESG.

Tuy nhiên, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ đang trong giai đoạn bắt đầu hành trình ESG. Mặc dù cam kết ESG ở Việt Nam đạt mức đáng khen ngợi, số liệu từ các báo cáo vẫn cho thấy tồn tại khoảng cách lớn giữa kỳ vọng và hành động. Điều này đòi hỏi các giải pháp thiết thực nhằm đẩy mạnh triển khai ESG trong các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia.

Những kết quả đạt được khi các doanh nghiệp Việt Nam triển khai ESG

Báo cáo triển vọng kinh doanh 2023 của Ngân hàng UOB cho thấy xu hướng ESG được hưởng ứng ngày càng mạnh mẽ bởi các doanh nghiệp Việt Nam. Trong đó, 94% doanh nghiệp tham gia khảo sát nhận thức rõ mức độ quan trọng của phát triển bền vững và 51% đã chính thức thực hành ESG. Theo báo cáo của PwC về Mức độ sẵn sàng thực hành ESG tại Việt Nam năm 2022-2023, 80% doanh nghiệp đã cam kết hoặc có kế hoạch cam kết ESG trong 2-4 năm tới (Hình 1).

Screen Shot 2024-03-24 at 10.40.56 PM

 

Theo các loại hình doanh nghiệp, mức độ sẵn sàng thực hành ESG có sự khác biệt giữa các nhóm. 57% các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã xây dựng các cam kết rõ ràng về ESG, cao nhất trong ba loại hình doanh nghiệp. Kết quả cao là bởi phần lớn các nhà đầu tư FDI sẽ có thể phải tuân thủ chính sách của công ty mẹ ở nước ngoài, nơi có xu hướng phát triển ESG nhanh hơn Việt Nam.

Mặt khác, các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam tiếp cận ESG theo hướng thận trọng hơn là quan sát và chờ đợi, khi hơn một nửa (58%) cho biết họ có kế hoạch cam kết ESG trong tương lai gần. Trong khi đó, 40% doanh nghiệp tư nhân/gia đình được khảo sát cho biết họ đã đặt ra các cam kết ESG.

Đây là một kết quả tương đối thú vị, con số này cũng nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của thế hệ kế nghiệp Việt Nam và niềm tin của họ về việc các doanh nghiệp gia đình nên dẫn đầu trong các hoạt động kinh doanh bền vững.

Theo Cuộc bình chọn Doanh nghiệp niêm yết thường niên do Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HOSE), Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) tổ chức, số lượng các công ty lập báo cáo phát triển bền vững riêng biệt (lọt vào vòng chung khảo cuộc bình chọn) đã tăng nhẹ từ mức 14 doanh nghiệp năm 2021, lên 19 năm 2022, và 21 báo cáo năm 2023.

Screen Shot 2024-03-24 at 10.41.06 PM

 

Theo khảo sát của Cuộc bình chọn, trong năm 2023, nhiều doanh nghiệp đã có khung báo cáo, công bố thực hành phát triển bền vững, áp dụng các chuẩn quốc tế, đưa các đánh giá ảnh hưởng môi trường ở góc độ tài chính vào báo cáo. Mặt khác, ở góc độ quản trị Môi trường – Xã hội – Quản trị (ESG), số lượng các công ty áp dụng mô hình ủy ban ESG thuộc hội đồng quản trị (HĐQT) cũng ngày càng nhiều hơn. Điều này cho thấy các vấn đề về ESG ngày càng được quan tâm hơn bởi HĐQT. Ngoài ra, số lượng các đơn vị công bố thông tin về đánh giá nhà cung cấp tăng lên so với các năm trước, đặc biệt có đơn vị công bố bộ chỉ số đánh giá nhà cung cấp về các lĩnh vực môi trường và xã hôi. Điều này đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp đã bắt đầu để ý nhiều hơn đến tác động môi trường của chuỗi cung ứng của mình.

Những hạn chế và thách thức trong thực hành ESG của các doanh nghiệp Việt Nam

Về số lượng thực hành và báo cáo ESG

Theo báo cáo của PwC Việt Nam, có một khoảng cách lớn giữa nhận thức (66% doanh nghiệp đã triển khai bất kỳ chương trình ESG do nhận thức được tầm quan trọng), và cam kết cao (80% đã cam kết hoặc có kế hoạch cam kết ESG trong 2-4 năm tới) với thực tế công bố báo cáo ESG (có tới 70% doanh nghiệp không có hoặc rất ít khi công bố báo cáo ESG ra bên ngoài) trong các tổ chức tại Việt Nam.

Trên thực tế, trong mùa công bố báo cáo doanh nghiệp mới nhất, số lượng báo cáo ESG được công bố vẫn còn rất hạn chế trên tổng số doanh nghiệp tại Việt Nam nói chung và doanh nghiệp quy mô lớn nói riêng. Ngoài ra, tỷ lệ rất cao các số liệu ESG được tích hợp chung vào báo cáo tổng hợp của doanh nghiệp chứ chưa được chú trọng công bố riêng.

Một nguyên nhân của thực trạng trên là bởi, doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam cho thấy tình trạng thiếu lãnh đạo cấp cao tham gia thúc đẩy thực hành các cam kết ESG. Khoảng 64% số doanh nghiệp cho biết thiếu sự tham gia tích cực và quản trị minh bạch của HĐQT đối với chương trình nghị sự ESG. Thêm vào đó, gần một nửa số doanh nghiệp (44%) cho biết tổ chức của họ không có hoặc chưa xác định rõ lãnh đạo ESG để giúp dẫn dắt và thực hiện các sáng kiến ESG (PwC, 2023). Điều này trở thành một thách thức lớn khi HĐQT đóng vai trò nòng cốt trong việc giám sát các yếu tố ESG và tích hợp tính bền vững vào các chiến lược ra quyết định và tăng trưởng dài hạn, nhằm đảm bảo phân bổ và ưu tiên các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện ESG.

Trong số các công ty được khảo sát tại Việt Nam, 46% công bố trách nhiệm của hội đồng quản trị liên quan đến tính bền vững; 44% công bố cơ cấu quản trị bền vững và chỉ 8% công bố số lượng thành viên hội đồng quản trị hoặc nhân sự quản lý đã qua đào tạo về phát triển bền vững. Các tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Screen Shot 2024-03-24 at 10.41.15 PM

 

Về chất lượng thực hành và báo cáo ESG

Theo kết quả khảo sát của PwC, phần lớn (87%) các doanh nghiệp đều cho biết họ đã có sẵn các mục tiêu ESG phù hợp. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp niêm yết được nghiên cứu ở Việt Nam đều công bố mục tiêu ESG ngắn hạn và trung hạn, chưa đến một nửa (48%) công bố các mục tiêu dài hạn, tức là trên 5 năm và chỉ có 8% công bố mục tiêu NetZero. Trong khi đó, số liệu về các doanh nghiệp niêm yết công bố mục tiêu ESG ngắn hạn, trung hạn và dài hạn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương là tương tự nhau - trung bình khoảng 76%.

Đồng thời, khảo sát về tiến độ phát triển các thước đo rủi ro cho thấy chưa đến một phần ba (28%) các doanh nghiệp có một bộ thước đo các chỉ số rủi ro toàn diện cả 3 yếu tố E, S và G về phát triển bền vững. Điều này có thể vẫn tiếp diễn do các doanh nghiệp thiếu kiến thức để có thể xây dựng kế hoạch giảm thiểu rủi ro một cách phù hợp.

Screen Shot 2024-03-24 at 10.41.26 PM

 

3 tiêu chí trọng tâm E, S và G của bộ tiêu chuẩn ESG đều bao hàm những yêu cầu khắt khe riêng. Chẳng hạn như, minh bạch tài chính, các chứng nhận về chất liệu/quy trình sản xuất thân thiện với môi trường hay bảo đảm công bằng xã hội, chống chế độ thời hiện đại. Đây là thách thức lớn đối với Việt Nam - một nền kinh tế trẻ "xuất thân" nông nghiệp và phụ thuộc vào gia công sản xuất.

Theo báo cáo phát triển bền vững 2023 của KPMG, Việt Nam có sự thay đổi nổi bật nhưng chưa thực sự hiệu quả ở tất cả các khía cạnh của ESG. Chẳng hạn như, nguyên vật liệu đầu vào vẫn chưa được quản lý chặt chẽ: 91% nguyên vật liệu đầu vào của các doanh nghiệp vẫn chưa minh chứng được tính bền vững và cũng không được phân loại theo các yêu cầu của ESG. Ở mục cắt giảm carbon nhằm giảm biến đổi khí hậu, Việt Nam vẫn chưa được đánh giá cao. Mục tiêu cắt giảm lượng carbon của Việt Nam chỉ đạt 10%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia cùng khu vực (Hình 6). Ngoài ra, những quy định về sử dụng lao động hướng đến việc công bằng xã hội cũng khiến các chủ doanh nghiệp loay hoay vì vốn dĩ nhân công giá rẻ là lợi thế nổi bật nhất của Việt Nam.

Screen Shot 2024-03-24 at 10.41.47 PM

 

Cùng với đó, dữ liệu cũng đang là rào cản chính khi 71% doanh nghiệp chưa trang bị đủ kiến thức về các dữ liệu cần thiết để báo cáo (Hình 5). Theo PwC (2023), đối với những đơn vị đã thu thập dữ liệu ESG, 47% cho biết họ chưa bắt đầu hoặc hiểu biết hạn chế về các yêu cầu cho báo cáo bên ngoài. Điều đáng nói hơn nữa là chỉ 28% cảm thấy tự tin với sự hiểu biết của họ về các yêu cầu dữ liệu phục vụ báo cáo bên ngoài.

Ngoài ra, so với các đối tác toàn cầu, Việt Nam hiện vẫn còn đi sau trong việc đánh giá, kiểm toán báo cáo ESG. Theo nghiên cứu về các tiêu chuẩn đảm bảo tính bền vững toàn cầu do PwC thực hiện, một nửa các doanh nghiệp toàn cầu (58%) đã đảm bảo tính độc lập về thông tin ESG. Trong khi tại Việt Nam, chỉ 36% doanh nghiệp xác nhận báo cáo ESG của họ được soát xét và xác minh bởi các đối tác độc lập bên ngoài (Hình 5).

Giải pháp thúc đẩy thực hành ESG tại các doanh nghiệp Việt Nam

Để có thể thực hiện tốt các cam kết về ESG cũng như nâng cao chất lượng công bố báo cáo ESG nhằm đóng góp vào tiến trình phát triển bền vững của quốc gia, một số giải pháp như sau được đề xuất đối với các doanh nghiệp Việt Nam:

Thứ nhất, cần tích hợp các yếu tố ESG vào chiến lược kinh doanh, quá trình quản trị rủi ro và đánh giá hiệu suất thông qua việc cải thiện báo cáo phát triển bền vững của doanh nghiệp, từ đó có thể giúp tiết kiệm chi phí và kiến tạo giá trị lâu dài. Cùng với đó, doanh nghiệp cũng cần tích hợp kế hoạch, chiến lược phát triển bền vững dài hạn với kế hoạch tổng thể hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để đem lại hiệu quả tổng thể cao nhất trong thực thi.

Thứ hai, nâng cao nhận thức và kiến thức về phát triển bền vững trong doanh nghiệp, đặc biệt tập trung vào đối tượng quản lý cấp cao, thông qua các khóa đào tạo, hội thảo, tọa đàm về ESG. Hiểu biết và nhận thức của lãnh đạo cấp cao sẽ tạo động lực mạnh mẽ trong việc truyền đạt rõ ràng, phối hợp và dẫn dắt toàn công ty trong quá trình triển khai ESG.

Thứ ba, xây dựng hệ thống quản trị hiệu suất ESG phù hợp và hiệu quả từ trên xuống. Hệ thống này có thể bao gồm một vị trí quản lý cấp cao chuyên trách xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hoạt động ESG; xác định chương trình thảo luận cụ thể về các nội dung ESG ở cấp hội đồng quản trị và ban điều hành; cơ chế báo cáo cũng như thông tin được báo cáo cho các cấp này và đưa ra các chỉ tiêu hiệu suất (KPI) rõ ràng liên quan đến ESG để xác định lương thưởng của hội đồng quản trị và nhóm chuyên trách ESG.

Thứ tư, nâng cao cơ sở hạ tầng về công nghệ nhằm hỗ trợ khai thác dữ liệu và lập báo cáo về ESG. Trong đó, có thể tận dụng các ứng dụng công nghệ 4.0 như trí tuệ nhân tạo (AI), học máy (machine learning), chuỗi khối (blockchain)… nhằm thu thập dữ liệu lớn liên quan đến ESG cũng như xây dựng các chỉ tiêu đánh giá ESG, phục vụ cho báo cáo ESG.

Thứ năm, chất lượng dữ liệu đóng vai trò vô cùng quan trọng để trình bày thông tin một cách hữu ích cho những người ra quyết định. Dữ liệu ESG ngoài việc phục vụ cho mục đích công bố thông tin ESG, còn phục vụ cho các mục đích khác như xây dựng các mô hình đo lường rủi ro khí hậu, kiểm tra sức chịu đựng rủi ro khí hậu, các bộ tiêu chí xếp hạng ESG và nhiều mục đích khác. Bên cạnh dữ liệu định tính (như phân tích, đánh giá từ chuyên gia hay tổ chức về mức độ cam kết ESG), các doanh nghiệp cần phát triển và đo lường các dữ liệu định lượng. Các doanh nghiệp có thể cân nhắc thực hiện các công việc sau: (1) Xác định các nội dung hoặc mục đích thu thập dữ liệu ESG; (2) Đánh giá thực trạng dữ liệu hiện tại và xây dựng chiến lược thu thập dữ liệu còn thiếu; (3) Xác định giải pháp nền tảng lưu trữ và quản lý dữ liệu ESG; (4) Đưa các yêu cầu dữ liệu ESG vào quy trình lõi tương ứng của tổ chức; (5) Xây dựng các quy định cụ thể về quản trị dữ liệu ESG.

Thứ sáu, nâng cao chất lượng công bố thông tin về ESG. Các doanh nghiệp cần công khai, cập nhật đầy đủ và rõ ràng, dễ tra cứu và dễ kiểm chứng các thông tin, chính sách liên quan tới ESG. Việc công bố thông tin phải được truyền thông rộng rãi trên tất cả các nguồn: trang web, thông cáo báo chí, báo cáo thường niên (có bổ sung báo cáo phát triển bền vững). Các doanh nghiệp có thể tham khảo các chuẩn mực công bố thông tin quốc tế phổ biến như GRI, TCFD, SASB. Nâng cao mức độ công bố thông tin sẽ là nền tảng để xây dựng cơ sở dữ liệu về ESG, hướng đến tính minh bạch trong toàn bộ hệ thống.

Thứ bảy, tăng cường hợp tác với các đối tác có công nghệ thông minh và chuyên môn đặc thù về ESG; đủ năng lực tư vấn, đào tạo, nhằm giúp tổ chức xác định chính xác đâu là cơ hội và nơi nào cần cải tiến và thay đổi; giúp công ty thiết lập hiệu suất cơ bản để có thể đặt ra các mục tiêu ESG. Các doanh nghiệp Việt Nam nên lựa chọn đối tác là các tổ chức nước ngoài có nhiều kinh nghiệm và khả năng chuyên môn trong việc thực hành ESG, hoạt động trong cùng lĩnh vực hoặc có mô hình kinh doanh tương tự.

(*) Chương trình nghiên cứu Tài chính bền vững, Viện NCKH Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ