800 tỷ đồng trong vụ đấu giá 375 lô đất vàng Thanh Hóa sẽ về đâu nếu hai lần không hủy đấu giá?

Nhàđầutư
Cùng một đơn vị trúng giá, song sau 3 lần đấu giá, 375 lô đất thuộc Mặt bằng Quy hoạch số 3241 tại TP. Thanh Hóa đã tăng từ 438 tỷ đồng lên 1.215 tỷ đồng. Nếu không có việc hai lần hủy đấu giá, có lẽ 800 tỷ đồng đã rơi vào tay tư nhân một cách dễ dàng.
BẢO BẢO
27, Tháng 09, 2019 | 14:03

Nhàđầutư
Cùng một đơn vị trúng giá, song sau 3 lần đấu giá, 375 lô đất thuộc Mặt bằng Quy hoạch số 3241 tại TP. Thanh Hóa đã tăng từ 438 tỷ đồng lên 1.215 tỷ đồng. Nếu không có việc hai lần hủy đấu giá, có lẽ 800 tỷ đồng đã rơi vào tay tư nhân một cách dễ dàng.

400-lo-dat-vang-thanh-hoa

Sau 3 lần đấu giá, 375 lô đất vàng thuộc mặt bằng quy hoạch 3241 tăng gần 800 tỷ đồng

Tháng 1/2018, Công ty cổ phần Nakama Việt Nam do bà Mai Thị Thắm làm đại diện pháp luật từng trúng thầu Khu đất có diện tích gần 58.000 m2 được chia ra thành 375 lô đất, trong đó 200 lô đất liền kề và 175 lô biệt thự với mức giá gần 438 tỷ đồng (chỉ cao hơn giá khởi điểm gần 4 tỷ đồng).

375 lô đất trên thuộc Dự án Khu dịch vụ thương mại văn phòng và dân cư Khu đô thị Đông Hương, TP. Thanh Hóa, theo Mặt bằng Quy hoạch số 3241/QĐ-UBND ngày 7/6/2013 của UBND TP. Thanh Hóa.

Tuy nhiên, do việc đấu giá đất gây nhiều bức xúc trong dư luận về giá đất cũng như cách tổ chức đấu giá, UBND tỉnh đã chỉ đạo các ngành chức năng vào cuộc xác minh quá trình tổ chức bán đấu giá, phát hiện có nhiều vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện.

Bởi vậy, ngày 14/3/2018, UBND TP. Thanh Hóa đã ban hành Quyết định số 1866/QĐ-UBND về việc hủy bỏ Quyết định số 13521/QĐ-UBND ngày 29/12/2017 của UBND TP Thanh Hóa về việc chỉ định đơn vị đấu giá QSDĐ và Hợp đồng bán đấu giá QSDĐ dự án.

Lần tổ chức đấu giá thứ 2, 375 lô đất vàng TP. Thanh Hóa được xác định giá khởi điểm là 521 tỷ đồng. Tuy nhiên phiên đấu giá thứ hai đã không thể diễn ra. Cụ thể, ngày 19/10/2018, Tỉnh ủy Thanh Hóa đã có Công văn số 3600-CV-VPTU về việc giao chỉ đạo giải quyết việc đấu giá QSDĐ tại MBQH số 3241/UBND-QLĐT thuộc Khu đô thị Đông Hương, TP. Thanh Hóa.

Và ngày 26/92019, tại Trung tâm dịch vụ đấu giá tài sản Thanh Hóa 375 lô đất vàng TP Thanh Hóa đã được đem ra đấu giá.

Lần này, Liên danh công ty cổ phần đầu tư và xây dựng ADI - Công ty cổ phần Đông Sơn Thanh Hóa trúng đấu giá với số tiền 1.215.030.000.000 đồng.

Như vậy, sau 18 tháng, cũng là gần 58.000m2 đất trên nhưng giá đã tăng từ 438 tỷ đồng lên hơn 1.215 tỷ đồng (chênh lệch gần 800 tỷ đồng).

Có một điểm đặc biệt, Liên danh trúng đấu giá lần 3 không phải ai xa lạ mà chính là Công ty cổ phần Nakama Việt Nam của bà Mai Thị Thắm đổi tên.

Cụ thể, Công ty Cổ phần Đầu tư và Xây dựng ADI chính là Công ty Cổ phần Nakama Việt Nam – đơn vị thành viên của Tổng công ty thương mại và xây dựng Đông Bắc (Đông Bắc Group) do ông Nguyễn Bá Bắc – chồng bà Mai Thị Thắm làm Chủ tịch HĐQT. Sau khi kết quả đấu giá lần 1 bị hủy, Nakama Việt Nam mới đổi tên và thay người đại diện pháp luật.

Còn Công ty cổ phần Đông Sơn Thanh Hóa được thành lập năm 2015 với vốn điều lệ là 20 tỷ đồng. Công ty này gồm 3 cổ đông sáng lập là: Công ty cổ phần xe khách Thanh Hóa (35%); Hoàng Đức Quang (40%) và Nguyễn Thị Liên (25%).

Trong các cổ đông của Đông Sơn Thanh Hóa nổi bật lên là Công ty cổ phần xe khách Thanh Hóa. Công ty này được thành lập từ năm 1999 và là chủ đầu tư nhiều dự án trên địa bàn TP. Thanh Hóa.

Tháng 7/2018, Công ty cổ phần xe khách Thanh Hóa tăng vốn điều lệ lên 90,2 tỷ đồng. 3/4 cổ đông sáng lập đã thoái vốn, chỉ còn lại cổ đông Lê Hoàng Linh nắm 52,6%.

Có thể thấy, đơn vị trúng thầu 375 lô đất vàng thuộc Mặt bằng quy hoạch 3241 tại TP. Thanh Hóa không thay đổi. Song, với việc hai lần hủy đấu giá, lô đất trên đã giúp tỉnh Thanh Hóa thu ngân sách thêm gần 800 tỷ đồng.

Nếu không có việc hủy kết quả đấu giá hồi tháng 1/2018, gần 800 tỷ đồng sẽ đi về đâu?

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25188.00 25488.00
EUR 26599.00 26706.00 27900.00
GBP 30785.00 30971.00 31939.00
HKD 3184.00 3197.00 3301.00
CHF 27396.00 27506.00 28358.00
JPY 160.58 161.22 168.58
AUD 16138.00 16203.00 16702.00
SGD 18358.00 18432.00 18976.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18250.00 18323.00 18863.00
NZD   14838.00 15339.00
KRW   17.68 19.32
DKK   3572.00 3703.00
SEK   2299.00 2388.00
NOK   2277.00 2366.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ