6 tháng cuối năm: Thị trường bất động sản có tác động tích cực tới thị trường chứng khoán?

Nhàđầutư
Tại tọa đàm "VN-Index cao nhất 9 năm, chứng khoán Việt Nam trước kỳ vọng mới", các chuyên gia kinh tế đã có một số chia sẻ về tác động của thị trường bất động sản trong 6 tháng cuối năm đến thị trường chứng khoán.
BẢO NGỌC
23, Tháng 07, 2017 | 11:05

Nhàđầutư
Tại tọa đàm "VN-Index cao nhất 9 năm, chứng khoán Việt Nam trước kỳ vọng mới", các chuyên gia kinh tế đã có một số chia sẻ về tác động của thị trường bất động sản trong 6 tháng cuối năm đến thị trường chứng khoán.

nhadautu-toadam

 Toàn cảnh tạo đàm (ảnh: Bizlive)

Ông Nguyễn Minh Phong - Chuyên gia Kinh tế cho rằng, thị trường chứng khoán (TTCK) cuối năm có thể nhận thêm những tin tức tích cực từ thị trường bất động sản. Đó là các yếu tố đến từ phân khúc nhà ở xã hội và nhà nghỉ dưỡng, cộng với đó là việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa gắn với niêm yết trên thị trường chứng khoán của doanh nghiệp nhà nước, Nghị quyết Quốc hội về xử lý nợ xấu, M&A...Các chuyên gia nhận định rằng đây có thể là cơ hội lớn cho nhà đầu tư chứng khoán.

Theo ông Nguyễn Trí Hiếu - chuyên gia tài chính - ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản (BĐS) có mối liên hệ mật thiết với nhau. TTCK nóng lên thì thị trường bất động sản phát triển, khi 1 trong 2 thị trường lao dốc thì thị trường còn lại cũng lao dốc theo. Nếu TTCK hình thành bong bóng, thị trường BĐS cũng sẽ hình thành bong bóng. 

Ông Hiếu dẫn ví dụ: ở Hoa Kỳ, trong giai đoạn 2006 – 2007 khi thị trường bất động sản nóng lên thì TTCK cũng tăng mạnh mẽ. 

Ông Hiếu cho rằng tăng trưởng tín dụng bất động sản và chứng khoán có thể dẫn đến tình trạng bong bóng tài sản. Hai lĩnh vực này rất hấp dẫn đối với đầu cơ. 

Ông Hiếu lưu ý rằng, tại Việt Nam, từ đầu năm đến nay tăng trưởng tín dụng đã đạt mức 9%, trong khi tăng trưởng huy động đến tháng 6 chỉ là 5,89%. 

Ông Lê Đăng Doanh - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên Cứu và Quản lý Kinh tế Trung ương cho rằng, không phải mọi phân khúc bất động sản tăng trưởng đều như nhau. Các phân khúc bất động sản khác nhau có sự tăng trưởng khác nhau, như phân phúc nhà giá rẻ, nhà ở thu nhập thấp tăng cao. Bất động sản văn phòng bắt đầu có những dấu hiệu dư thừa. Điều đó cho thấy không phải mảng thị trường nào cũng tăng trưởng. Ông khẳng định, hai thị trường này (chứng khoán và bất động sản - PV) tương tác chặt chẽ, nhưng không đến mức vậy.

Ông Lâm Minh Chánh - Chủ tịch CTCP Đầu tư và Thương mại LMC, không đồng tình với quan điểm với ông Dương Trí Hiếu. Ông cho rằng, khi thị trường đang khó khăn, nếu tiền vào bất động sản thì sẽ không vào chứng khoán.

Ông Nguyễn Đức Hùng Linh - Giám đốc phân tích và tư vấn đầu tư khách hàng cá nhân Công ty chứng khoán SSI cho rằng, cần phải xác định rõ tỷ lệ tín dụng đổ vào lĩnh vực BĐS. Tuy nhiên, theo ông Linh, tiền đổ vào lĩnh vực BĐS và xây dựng là rất nhiều. Cụ thể, chỉ riêng tín dụng cho lĩnh vực xây dựng đã là 17,5%. 

Khi phân tích số liệu trong GDP của Tổng cục thống kê, mức tăng trưởng của phân khúc nhà để ở tăng rất mạnh. Điều này chứng tỏ lượng tín dụng (tính riêng cho lĩnh vực BĐS và xây dựng - PV) phần lớn đi vào lĩnh vực nhà để ở.

Theo các chuyên gia, trước kia trong lĩnh vực BĐS, người đi vay là chủ đầu tư, do đó nguy cơ đổ vỡ cao. Bây giờ, người tiêu dùng lại là người đi vay nhiều nhất, chủ đầu tư chuyển khoản vay sang các cá nhân. Đây là thay đổi căn bản trong tín dụng bất động sản hiện nay. Do vậy, theo các chuyên gia, nguy cơ xảy ra đổ vỡ tín dụng bất động sản cũng khó hơn.

Ông Linh cho rằng, ngày trước, các chủ đầu tư xây nhà để bán lướt sóng nhanh. Tuy nhiên, giờ các chủ đầu tư đã cẩn trọng hơn, chiến lược kinh doanh cũng đã thay đổi. Họ tính toán, lựa chọn phân khúc phù hợp để bán hàng cho dễ. Do đó, ông cho rằng, rủi ro liên quan đến tín dụng bất động sản không phải không có, nhưng không còn cao như trước.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24610.00 24635.00 24955.00
EUR 26298.00 26404.00 27570.00
GBP 30644.00 30829.00 31779.00
HKD 3107.00 3119.00 3221.00
CHF 26852.00 26960.00 27797.00
JPY 159.81 160.45 167.89
AUD 15877.00 15941.00 16428.00
SGD 18049.00 18121.00 18658.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17916.00 17988.00 18519.00
NZD   14606.00 15095.00
KRW   17.59 19.18
DKK   3531.00 3662.00
SEK   2251.00 2341.00
NOK   2251.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ