Tình hình cung ứng điện tiếp tục căng thẳng

Nhàđầutư
EVN cho biết, vấn đề nan giải là kế hoạch vận hành hệ thống điện cho các tháng còn lại của năm 2019 là hệ thống điện vận hành căng thẳng, khả dung hệ thống giảm thấp, phải huy động nhiệt điện than, khí miền Nam tối đa theo khả dụng tổ máy và nhiên liệu sơ cấp.
HẢI ĐĂNG
29, Tháng 05, 2019 | 15:25

Nhàđầutư
EVN cho biết, vấn đề nan giải là kế hoạch vận hành hệ thống điện cho các tháng còn lại của năm 2019 là hệ thống điện vận hành căng thẳng, khả dung hệ thống giảm thấp, phải huy động nhiệt điện than, khí miền Nam tối đa theo khả dụng tổ máy và nhiên liệu sơ cấp.

gia-cua-co-dien

EVN cho biết, vấn đề nan giải là kế hoạch vận hành hệ thống điện cho các tháng còn lại của năm 2019 là hệ thống điện vận hành căng thẳng

Thông tin tại cuộc họp về tình hình cung ứng điện năm 2019 diễn ra sáng nay (29/5) tại Hà Nội, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho hay, mặc dù có kế hoạch điều tiết sử dụng tiết kiệm từ đầu năm 2019, tuy nhiên do lưu lượng nước về các hồ miền Trung, miền Nam rất thấp, đến thời điểm hiện tại sản lượng thủy điện tích trong hồ của 2 miền chỉ khoảng 1.3 tỷ kWh, tương đương tổng phụ tải Toàn quốc trong 2 ngày làm việc.

"Để đáp ứng nhu cầu phụ tải, EVN đã huy động các nguồn như nhiệt điện dầu từ tháng 4/2019. Tổng sản lượng điện huy động từ dầu đến thời điểm này là 194 triệu kWh", lãnh đạo EVN cho hay.

Thông tin tại cuộc họp, đại diện EVN cho hay, nhìn chung trong 5 tháng đầu năm, EVN vẫn đang đảm bảo cung ứng đủ điện cho nền kinh tế Quốc dân, đặc biệt trong giai đoạn đã qua của mùa khô cũng như các sự kiện đặc biệt của Quốc gia. Đảm bảo cung cấp nước cho phía hạ du và cung cấp đủ nước phục vụ đổ ải Đông Xuân 2018 – 2019.

Đồng thời, EVN phối hợp với các nhà đầu tư, đưa vào vận hành chính thức 44 nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 2.231 MW.

Tuy nhiên, EVN cho biết, dự kiến tháng 6 phụ tải tiếp tục tăng trưởng cao theo chu kỳ hàng năm, ở mức trung bình 701.2 tr.kWh/ngày, tăng khoảng 9% so với cùng kỳ năm 2018. Công suất cực đại dự kiến ở mức 38000-39000 MW tăng 13-14% so với cùng kỳ 2018.

Các hồ thủy điện miền Trung, miền Nam dự kiến lưu lượng nước về tiếp tục kém do ảnh hưởng Elnino. Các hồ miền Bắc dự kiến lưu lượng nước về tương đương tháng 5.

EVN cho biết, vấn đề nan giải là kế hoạch vận hành hệ thống điện cho các tháng còn lại của năm 2019 là hệ thống điện vận hành căng thẳng, khả dung hệ thống giảm thấp, phải huy động nhiệt điện than, khí miền Nam tối đa theo khả dụng tổ máy và nhiên liệu sơ cấp. Dự kiến các ngày tới phụ tải tiếp tục tăng cao hơn do nắng nóng, hệ thống điện vận hành căng thẳng hơn nữa.

Việc đưa vào các dự án điện mặt trời sẽ góp phần đảm bảo cấp điện. Tuy nhiên gặp phải khó khăn do khi phải bố trí công tác cắt điện đấu nối trong mùa cao điểm nắng nóng.

Hệ thống điện bắt đầu đối mặt các thách thức mới khi vận hành với tỷ trọng năng lượng tái tạo tăng cao (tính bất định, chất lượng điện năng, quá tải…); Nhiều hồ không có khả năng đảm bảo yêu cầu cấp nước hạ du.

Huy động nguồn từ các dự án nhiệt điện, điện mặt trời,... để đáp ứng nhu cầu phụ tải

Để đảm bảo cung ứng điện EVN cho biết, trong tháng 6, dự kiến sẽ phải huy động từ dầu để sản xuất khoảng 90 triệu kWh từ Nhà máy điện Ô Môn để đáp ứng nhu cầu phụ tải. Bên cạnh đó, huy động khoảng 37 triệu kWh từ điện gió, 423 triệu kWh từ điện mặt trời và 50 triệu kWh từ điện sinh khối.

Bên cạnh đó, EVN yêu cầu các đơn vị phát điện thuộc EVN nâng cao khả dụng tổ máy; Đảm bảo khả dung các nhà máy nhiệt điện dầu và tuabin khí chạy dầu, sẵn sàng huy động khi hệ thống có nhu cầu; Điều chỉnh huy động thuỷ điện linh hoạt theo lưu lượng nước về và nhu cầu phụ tải.

Dự kiến phương thức huy động tối đa các nhà máy nhiệt điện than và tuabin khí khu vực miền Nam, giám sát liên tục đường dây truyền tải để tăng cường công suất từ Bắc vào Nam; Tăng cường công tác điều chỉnh phụ tải điện, hạn chế công suất trong cao điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ