Tìm nhóm ngành dẫn sóng nửa cuối năm

Nhàđầutư
Sau nhịp điều chỉnh sâu trong Quý II, thị giá nhiều nhóm cổ phiếu đã về vùng tiềm năng cho tầm nhìn trung - dài hạn.
KHÁNH AN
14, Tháng 07, 2022 | 12:14

Nhàđầutư
Sau nhịp điều chỉnh sâu trong Quý II, thị giá nhiều nhóm cổ phiếu đã về vùng tiềm năng cho tầm nhìn trung - dài hạn.

Empty

Nhà đầu tư được khuyến nghị cần lưu ý về mặt định giá khi nhiều cổ phiếu đã phản ánh trước kỳ vọng tăng trưởng về mặt lợi nhuận. Ảnh Gia Huy.

VN-Index chốt phiên ngày 13/7 dừng tại mức 1.173,92 điểm, như vậy, nếu tính từ đỉnh thị trường 1.528 điểm trong tháng 4/2022, chỉ số chính đã giảm hơn 23%. Giá trị khớp lệnh toàn thị trường (3 sàn) hiện chỉ quanh mức 15.000 tỷ đồng/phiên và ở mức 53.000 tỷ đồng/tuần, bằng 41% so với mức trung bình khoảng thời gian thị trường tạo đỉnh.

Cùng với sự hụt hơi của thanh khoản, điểm trừ trên TTCK những phiên gần đây còn đến từ động thái bán ròng của khối ngoại. Riêng trong tháng 7, khối này đã có đến 7/9 phiên bán ròng với tổng giá trị bán ròng lên đến 2.419 tỷ đồng trên cả 3 sàn. Song, nếu tính từ đầu năm đến nay, giá trị mua ròng vẫn đạt gần 1.568 tỷ đồng.

Trong bối cảnh thị trường khó đoán định, không ít tổ chức đã đưa ra các đánh giá tích cực về TTCK giai đoạn cuối năm 2022 dựa vào kỳ vọng nâng hạng lên thị trường mới nổi, công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước được đẩy mạnh hay những thông tin tích cực từ mùa báo cáo kết quả kinh doanh quý 2, yếu tố vĩ mô về giá dầu, dự thảo giao dịch T+2 bắt đầu được thực thi trong tháng 8/2022 và đặc biệt là tâm lý bi quan trên thị trường đã giảm bớt.

Đơn cử như VDSC, trong báo cáo mới đây, nhóm phân tích này nhận định tâm lý của thị trường đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân đã ổn định đáng kể so với sự lo lắng diễn ra giữa tháng 4 đến giữa tháng 6 trước đó, giờ đây, nhà đầu tư cá nhân trong nước đã không ồ ạt bán theo khối ngoại mà có động thái mua ròng. Một phần nguyên nhân của diễn biến này đến từ việc giảm áp lực bán giải chấp trong khi một lượng nhà đầu tư đã chấp nhận khoản lỗ và xem nó như một khoản đầu tư dài hạn.

Dù vậy, cũng cần lưu ý rằng, để thị trường có thể xác nhận tạo đáy thành công thì dòng tiền cần phải tích cực tham gia hơn và việc chọn nhóm cổ phiếu nào để giải ngân đang là mối quan tâm lớn của phần đông những nhà đầu tư đang đứng ngoài quan sát như hiện nay.

Tìm nhóm dẫn sóng

Trong báo cáo phân tích mới đây, VCBS nhận định trong những ngày cuối quý 2, dòng tiền có xu hướng quay trở lại các cổ phiếu có yếu tố cơ bản tốt - đặc biệt là nhóm cổ phiếu vốn hóa lớn, do vậy, xu hướng này nhiều khả năng sẽ vẫn tiếp tục trong nửa cuối năm 2022.

VCBS khuyến nghị nhà đầu tư nên ưu tiên lựa chọn các doanh nghiệp bất động sản đang ở chu kỳ bán hàng chứ không phải ở giai đoạn triển khai dự án. Bên cạnh đó, triển vọng tích cực ở các nhóm cổ phiểu được hưởng lợi từ giá đầu ra ở mức cao và vẫn còn tiềm năng duy trì mức giá này hoặc thậm chí có thể tiếp tục đi lên như hóa chất, thủy sản, thịt lợn, hay ngành điện.

“Do bối cảnh nền kinh tế trong nước và thế giới dự báo còn nhiều yếu tố rủi ro, bất định, một số cổ phiếu ngành điện được kỳ vọng sẽ nổi bật với tính phòng thủ nhất định trong khi vẫn hứa hẹn triển vọng và hưởng lợi từ sự phục hồi của nền kinh tế trong nước sau đại dịch và các chính sách ưu tiên với nhóm năng lượng tái tạo”, VCBS dự báo.

Ngoài ra, công ty này cũng duy trì kỳ vọng đối với lợi nhuận toàn ngành ngân hàng trong năm 2022. Tuy nhiên mức độ tích cực sẽ giảm dần trong nửa cuối năm 2022 và năm 2023, đặc biệt trong năm 2023 sẽ có sự phân hóa rõ rệt về lợi nhuận giữa các nhóm ngân hàng. VCBS đánh giá triển vọng đầu tư cổ phiếu ngành ngân hàng đang ở mức phù hợp thị trường, với mức định giá xấp xỉ mức trung bình 5 năm. Các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và tốc độ tăng trƣởng vượt trội so với ngành sẽ vẫn nằm trong nhóm có thể xem xét đầu tư trong dài hạn, bao gồm: MBB, VPB, BID, VCB, TCB, ACB, MSB, STB.

Về phần mình, SSI Research đặc biệt lưu ý đến nhóm nông nghiệp khi kỳ vọng các công ty chăn nuôi sẽ bắt đầu phục hồi trong nửa cuối năm 2022 nhờ chi phí chăn nuôi đi ngang và giảm trong quý IV còn giá heo hơi dự kiến sẽ tăng chậm đến cuối năm, đạt 65.000 đồng đến 70.000 đồng/kg. 

Với Agriseco, nhóm phân tích công ty chứng khoán này nhận định trong bối cảnh thị trường đang có dấu hiệu tạo đáy đi ngang thì đây là thời điểm phù hợp để tích lũy các cổ phiếu tốt khi tăng trưởng kinh tế vẫn ở mức cao và lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát. Số liệu vĩ mô đã cho thấy sự hồi phục mạnh mẽ tại nhiều nhóm ngành, lĩnh vực. Trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xuất khẩu và hoạt động du lịch, do vậy, cơ hội có thể đến từ kỳ vọng duy trì đà tăng trưởng này giai đoạn tới như nhóm thủy sản, cao su, hóa chất, hàng không. Tuy nhiên nhà đầu tư cần lưu ý về mặt định giá khi nhiều cổ phiếu đã phản ánh trước kỳ vọng tăng trưởng về mặt lợi nhuận. 

Đối với triển vọng ngành trong nửa cuối năm, bộ phận phân tích doanh nghiệp của KBSV đánh giá tích cực với các ngành bất động sản khu công nghiệp, điện lực, công nghệ thông tin, bán lẻ, thuỷ sản, dầu khí.

Công ty này cũng lưu ý triển vọng nhóm ngân hàng nhờ đợt nâng room tín dụng của Ngân hàng Nhà nước sẽ giúp thúc đẩy hoạt động cho vay của toàn ngành. Theo KBSV, giá cổ phiếu ngân hàng đã có mức sụt giảm sâu khoảng 30% từ đầu năm do tác động từ thắt chặt tín dụng bất động sản, room tín dụng cạn và các thông tin xấu liên quan thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Kết hợp cùng triển vọng khả quan hơn về kết quả kinh doanh trong nửa cuối năm nhóm phân tích đánh giá đây là mức định giá hấp dẫn cho ngành.

Ở góc nhìn thận trọng, VDSC cho rằng dòng tiền sẽ tiếp tục luân chuyển qua lại giữa các nhóm ngành, thay vì tạo nên một sóng tăng mạnh cho thị trường, bởi mặc dù triển vọng kinh doanh trong quý 2 và quý 3 của các ngành nghề được đánh giá là trung lập – tích cực, song xu hướng nhìn chung vẫn có sự phân hóa giữa các ngành. 

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25157.00 25457.00
EUR 26777.00 26885.00 28090.00
GBP 31177.00 31365.00 32350.00
HKD 3185.00 3198.00 3304.00
CHF 27495.00 27605.00 28476.00
JPY 161.96 162.61 170.17
AUD 16468.00 16534.00 17043.00
SGD 18463.00 18537.00 19095.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18207.00 18280.00 18826.00
NZD 0000000 15007.00 15516.00
KRW 0000000 17.91 19.60
       
       
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ