Thức ăn chi phối 70% giá thành cá tra: Bài toán khó của ngành thủy sản

Nhàđầutư
Theo Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) Nguyễn Hoài Nam, từ sau dịch COVID-19 đến nay giá thức ăn tăng hơn 30% khiến cho người nuôi trồng lẫn doanh nghiệp ngành hàng này đứng trước nhiều thách thức khi mà nguyên liệu đầu vào này quyết định 70% giá thành của con cá tra.
THIÊN KỲ
16, Tháng 01, 2024 | 06:30

Nhàđầutư
Theo Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep) Nguyễn Hoài Nam, từ sau dịch COVID-19 đến nay giá thức ăn tăng hơn 30% khiến cho người nuôi trồng lẫn doanh nghiệp ngành hàng này đứng trước nhiều thách thức khi mà nguyên liệu đầu vào này quyết định 70% giá thành của con cá tra.

tim-kiem-giai-phap-tong-the-xu-ly-o-nhiem-moi-truong-ao-nuoi-ca-tra-o-dbscl-2 (1)

Cần có cơ chế ổn định giá nguyên liệu đầu vào nhất là thức ăn của con cá tra. Ảnh: Báo Đầu tư

Theo ông Nam phân tích, thức ăn hiện chi phối đến 70% giá của con cá tra thành phẩm và câu chuyện này đã diễn ra trong dài hạn. Nếu cộng cả các công đoạn giống, nuôi thương phẩm thì sẽ chiếm tới 80% giá thành của ngành hàng này. 

Trao đổi với phóng viên Nhadautu.vn ông Ong Hàng Văn, Phó Tổng Giám đốc Công ty CP Thủy sản Trường Giang cho biết, từ đầu năm 2023 trước bối cảnh khó khăn sức tiêu thụ tại nội địa lẫn xuất khẩu các thị trường giảm, lượng tồn kho lớn khiến doanh nghiệp phải hạ giá thành để cạnh tranh cũng như giải quyết tồn kho.

Đáng nói, hiện nay ngành thủy sản vẫn được dự báo tiếp tục gặp khó khăn trong năm 2024 khi mà nguồn hàng tồn kho hiện còn rất lớn. 

Đa phần nhà bán lẻ ở các thị trường chính như Mỹ, EU thậm chí là Trung Quốc có xu hướng giảm nhập khẩu để giảm lượng tồn kho, tối ưu hóa chi phí trong bối cảnh lạm phát tăng cao khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu.

Hồi cuối năm 2023, ông Trần Văn Hùng, người sáng lập Công ty TNHH Hùng Cá cho biết thời điểm đó, giá cá tra nguyên liệu được giao dịch không quá 26.500 đồng/kg, (tức dưới giá thành sản xuất) khiến nông dân nuôi cá tra bị thua lỗ.

Thực tế, tình trạng này có thể kéo dài đến hết quý 1/2024 do nhu cầu cá tra tại các thị trường phục hồi chậm sẽ chưa thể thúc đẩy giá cá nguyên liệu phục hồi. Kết hợp với chu kỳ nuôi cá tra thường kéo dài từ 6 - 8 tháng, chính vì vậy nguồn cung cá tra có thể sẽ duy trì ở mức thấp trong cả năm 2024.

Số liệu thống kê cho thấy các thị trường nhập khẩu cá tra Việt Nam trong năm 2023 đều có xu hướng giảm, trong đó thị trường Trung Quốc giảm gần 22%, Mỹ giảm hơn 53%, EU giảm hơn 17%, thành viên CPTPP (các nước tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) giảm gần 27%. Trong khi chỉ có các thị trường chiếm tỷ trọng nhỏ như Đức, Anh, Brazil, Saudi Arabia… là tăng trưởng dương so năm 2022.

"Dù có nhiều điểm tựa, tình hình lạm phát có giảm nhưng 2024 ngành thủy sản vẫn sẽ còn nhiều khó khăn khi mà lượng hàng tồn hiện còn rất lớn. Không chỉ Việt nam mà các quốc gia xuất khẩu các ngành hàng tương đồng với Việt Nam cũng thế. Phải qua hết 6 tháng năm 2024 mới hy vọng có biến chuyển", đại diện Vasep đánh giá.

Ước cả năm 2023, diện tích thả nuôi cá tra đạt khoảng 5.700ha (bằng 98% năm 2022); sản lượng khoảng 1,6 triệu tấn (tương đương cùng kỳ); kim ngạch xuất khẩu ước đạt 1,8 tỷ USD, giảm 25% so năm 2022. Năm 2024, toàn ngành cá tra đặt mục tiêu phấn đấu: Diện tích nuôi cá tra xuất khẩu đạt 5.700ha, sản lượng cá thương phẩm 1,7 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD ( bằng 75% so năm 2022)

Phó Tổng thư ký Vasep kiến nghị, Nhà nước và các Bộ ngành liên quan cần sớm có chính sách tác động và điều chỉnh nhằm hạn chế giá thành đầu vào của ngành cá tra, giúp người dân lẫn doanh nghiệp vượt khó.

"Vasep kiến nghị cần xem xét xây dựng một chương trình chính sách về giá thức ăn, nguyên liệu đầu vào để đảm bảo giá đầu ra góp phần cho cá tra cũng như ngành thủy sản bớt gánh nặng trong bối cảnh nhiều khó khăn", ông Nam nói.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ