Nhóm cổ phiếu nào có triển vọng tăng mạnh sau khủng hoảng dịch bệnh COVID-19?

Nhàđầutư
Nhìn chung, YSVN cho rằng diễn biến của các nhóm ngành hiện tại có một số điểm tương đồng với thời điểm khủng hoảng năm 2008-2009 và những ngành giảm mạnh nhất trong giai đoạn khủng hoảng có sự hồi phục mạnh nhất sau đó.
NGỌC HUYỀN
22, Tháng 03, 2020 | 11:02

Nhàđầutư
Nhìn chung, YSVN cho rằng diễn biến của các nhóm ngành hiện tại có một số điểm tương đồng với thời điểm khủng hoảng năm 2008-2009 và những ngành giảm mạnh nhất trong giai đoạn khủng hoảng có sự hồi phục mạnh nhất sau đó.

ckcucu_jfgz

Nhóm ngành nào có triển vọng tăng mạnh sau khủng hoảng dịch bệnh COVID-19 (Ảnh: Internet)

Công ty Chứng khoán Yuanta Việt Nam (YSVN) đã đưa ra báo cáo nhận định triển vọng ngành sau khủng hoảng dịch bệnh COVID-19.

Biến động các ngành hiện tại so với thời điểm 2019

Theo YSVN, nếu so sánh với đỉnh điểm năm 2019 thì thời điểm hiện tại rất nhiều nhóm ngành đã giảm rất sâu. Trong đó, dầu khí, bảo hiểm, ôtô và phụ tùng, bán lẻ đã giảm gần 50%. Các ngành giảm ít nhất bao gồm y tế, hàng cá nhân và gia dụng, công nghệ thông tin.

So với thời điểm cuối năm 2019, những ngành giảm mạnh nhất là bảo hiểm (-32%), dầu khí (-32%), du lịch và giải trí (-30%), bán lẻ (-29%). Những ngành giảm ít nhất là hóa chất (-6%), y tế (-7%), xây dựng và vật liệu (-12%), ngân hàng (-14%).

1 (4)

 

Nhìn chung, YSVN cho rằng diễn biến của các nhóm ngành hiện tại có một số điểm tương đồng với thời điểm khủng hoảng năm 2008-2009 và những ngành giảm mạnh nhất trong giai đoạn khủng hoảng có sự hồi phục mạnh nhất sau đó.

2 (4)

 

Dữ liệu trước và sau giai đoạn năm 2008-2009 cho thấy, ngành dịch vụ tài chính và du lịch - giải trí là 2 ngành giảm mạnh nhất trong giai đoạn khủng hoảng và đã hồi phục mạnh nhất.

Đáng chú ý, ngân hàng là ngành nằm trong top 6 ngành giảm thấp nhất trong giai đoạn khủng hoảng nhưng sau đó thì lại tăng trưởng rất tốt và phản ứng sớm so với thị trường chung.

Các cổ phiếu ngành khác như y tế, điện, nước, xăng dầu, khí đốt, thực phẩm và đồ uống ít bị ảnh hưởng vì đây là các ngành cung cấp các sản phẩm và dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân.

Triển vọng tăng giá các ngành sau khủng hoảng dịch bệnh COVID-19

Biến động các chỉ số ngành phản ánh rõ tình hình kinh tế cũng như khó khăn đang gặp phải của các doanh nghiệp trong ngành trước tình hình dịch bệnh COVID-19.

3 (1)

 

Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hóa 2 tháng đầu năm 2020 tăng trưởng 8,3%, giảm so với mức 12,2% của năm 2019 và 10,1% của năm 2018. Khả năng lớn con số này tháng 3 còn thấp hơn nữa.

Số lượt khách quốc tế đến Việt Nam tháng 2/2020 giảm 37,7% so với tháng 1/2020 và giảm 21,8% so với cùng kỳ 2019 đều ảnh hưởng không chỉ tới lĩnh vực du lịch, giải trí mà bán lẻ cũng chịu tác động không kém.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp điện tử, dệt may, lắp ráp ôtô thiếu nguồn cung nguyên vật liệu do phần lớn nhập khẩu từ Trung Quốc. Điều may mắn là tình hình dịch bệnh Trung Quốc trong gần 1 tháng qua đã có những tín hiệu tích cực và các doanh nghiệp tại Trung Quốc đã bắt đầu hoạt động trở lại. Tuy nhiên, gần đây cuộc chiến giá dầu giữa Nga - Saudi Arabia và nguy cơ leo thang quân sự ở Syria khiến giá dầu lao dốc, sẽ là một áp lực với các doanh nghiệp dầu khí.

Trước động thái nới lỏng chính sách tiền tệ của Fed và các nước trên thế giới, chính phủ cũng đã đưa ra một số chính sách giảm lãi, gia hạn nợ, cụ thể ngân hàng Nhà nước đã ban hành văn bản đồng loạt giảm lãi suất huy động, cho vay các kỳ hạn. Và theo YSVN, nhà nước có thể sẽ tăng đầu tư công nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều này sẽ tác động tích cực tới các doanh nghiệp hạ tầng, xây dựng.

Tóm lại, dựa trên một số điểm tương đồng và đặc thù sự ảnh hưởng tới kinh tế của dịch bệnh COVID-19, YSVN nhận định một số ngành sẽ tăng giá mạnh theo thứ tự như sau: Dịch vụ và giải trí (đạt đỉnh trước VN-Index khoảng 3 tháng), Bán lẻ (đạt đỉnh trước VN-Index khoảng 5 tháng), Dịch vụ tài chính (đạt đỉnh cùng VN-Index), Ô tô và phụ tùng (đạt đỉnh cùng VN-Index), Ngân hàng (đạt đỉnh trước VN-Index khoảng 5 tháng).

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ