Kinh nghiệm quốc tế và một số giải pháp nâng hạng TTCK từ góc nhìn của một tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Nhàđầutư
Thị trường xếp hạng tín nhiệm chưa phát triển là một trong những băn khoăn khiến các quỹ đầu tư nước ngoài e ngại trong việc rót vốn vào Việt Nam. Tại các thị trường phát triển, nhà đầu tư có thể yêu cầu các doanh nghiệp hoặc tổ chức phát hành phải được thực hiện đánh giá xếp hạng tín nhiệm.
PHÙNG XUÂN MINH (*)
08, Tháng 10, 2023 | 07:00

Nhàđầutư
Thị trường xếp hạng tín nhiệm chưa phát triển là một trong những băn khoăn khiến các quỹ đầu tư nước ngoài e ngại trong việc rót vốn vào Việt Nam. Tại các thị trường phát triển, nhà đầu tư có thể yêu cầu các doanh nghiệp hoặc tổ chức phát hành phải được thực hiện đánh giá xếp hạng tín nhiệm.

Screen Shot 2023-10-07 at 11.44.51 PM

Ảnh minh hoạ: Internet

Ý nghĩa và lợi ích của việc nâng hạng thị trường chứng khoán

Trong quá trình gần 25 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể về quy mô vốn hoá, cơ sở nhà đầu tư, số lượng sản phẩm, giá trị giao dịch hàng ngày, hệ thống hạ tầng cơ sở thị trường; từng bước tiếp cận các tiêu chuẩn và thông lệ vận hành thị trường chứng khoán quốc tế và nâng cao chất lượng quản trị, quản lý của các doanh nghiệp; đi đôi với việc gia tăng tính chuyên nghiệp của tất cả các chủ thể tham gia thị trường.

Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang có nhiều điều kiện, tiền đề và cơ hội lớn để được các tổ chức xếp hạng có uy tín của quốc tế (MSCI, PTSE Russell) xem xét, đánh giá và quyết định nâng hạng từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi trong tương lai gần.

Khi thị trường chứng khoán Việt Nam được nâng hạng sẽ đem lại rất nhiều ý nghĩa, lợi ích to lớn nhiều mặt, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển thị trường vốn an toàn, minh bạch, hiệu quả và phát triển bền vững nhằm tạo điều kiện ổn định kinh tế vĩ mô; gia tăng khả năng thu hút các nguồn lực vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ các nhà đầu tư quốc tế, gia tăng thu hút số lượng lớn các tổ chức đầu tư nước ngoài uy tín có quy mô lớn, từ đó sẽ ảnh hưởng tích cực đến tính thanh khoản của TTCK Việt Nam; thúc đẩy nâng cao vị thế và hình ảnh của thị trường vốn quốc gia trong khu vực và thế giới. Đồng thời, thị trường chứng khoán sẽ cùng với thị trường vốn tín dụng các ngân hàng thương mại và thị trường trái phiếu doanh nghiệp trở thành 3 trụ cột kênh dẫn vốn quan trọng của nền kinh tế và hệ thống doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.

Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phấn đấu đạt được mục tiêu phát triển nâng hạng thị trường chứng khoán trước năm 2025 - từ thị trường cận biên lên thị trường mới nổi, để thu hút các nguồn lực vốn trong nước và đặc biệt là của quốc tế. Chúng tôi cho rằng, mặc dù chúng ta đang có nhiều cơ hội, nhưng đây là vấn đề hết sức khó khăn, thách thức và thực tế cho thấy Việt Nam đã lỡ hẹn với mục tiêu này ở một vài thời điểm của các năm trước đây. Vì vậy, để đạt được mục tiêu nói trên, đòi hỏi chúng ta phải chủ động, tích cực và tiếp cận giải quyết vấn đề theo hướng quyết liệt, toàn diện và hiệu quả hơn nữa để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đánh giá xác định rõ các vấn đề vướng mắc quan trọng cần phải giải quyết theo lộ trình cụ thể và đề xuất các giải pháp quan trọng nhằm đảm bảo đáp ứng được các điều kiện, tiêu chí đánh giá của các tổ chức xếp hạng thị trường quốc tế và sự tín nhiệm của các nhà đầu tư cổ phiếu quốc tế, khi tham gia TTCK Việt Nam.

Thực trạng, khó khăn, vướng mắc

Thời gian vừa qua, TTCK Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong cải thiện các tiêu chí nhằm thỏa mãn các điều kiện của một thị trường mới nổi. Tuy nhiên, hiện vẫn có một số trở ngại cần tập trung giải quyết, tháo gỡ nhằm khuyến khích hơn nữa sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong thời gian tới, trong đó quan trọng nhất là (i) yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (prefunding); (ii) giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài; và (iii) mức độ tự do hóa của thị trường ngoại hối.

Yêu cầu ký quỹ trước giao dịch (prefunding)

Chúng tôi cho rằng, với quy định bắt buộc ký quỹ 100% bằng tiền khi đặt lệnh là trở ngại lớn với hiệu quả sử dụng vốn của nhà đầu tư. Mặc dù pre-funding giúp quản lý rủi ro thanh toán nhưng quy định này làm chậm tốc độ quay vòng vốn, làm tăng chi phí cơ hội của nhà đầu tư và ảnh hưởng đến tính thanh khoản của thị trường.

Cụ thể, chu kỳ thanh toán của TTCK Việt Nam hiện là T+2 với mô hình DvP (Delivery versus Payment - Giao dịch Chứng khoán đồng thời với việc thanh toán tiền). Điều đó có nghĩa là, nhà đầu tư chỉ được đặt lệnh mua hoặc bán khi đã ký quỹ đủ tiền/chứng khoán trên tài khoản giao dịch chứng khoán. Điều này đã tạo ra nút thắt khiến TTCK Việt Nam không được các tổ chức xếp hạng quốc tế nâng hạng trong kỳ đánh giá tháng 9/2023.

Giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Đối với vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 60/2015 cho phép nới room cho nhà đầu tư nước ngoài lên 100% đối với các doanh nghiệp không thuộc danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Tuy nhiên, số lượng cổ phiếu chính thức nới room vẫn khá khiêm tốn, một phần do bị hạn chế bởi các quy định từ các luật liên quan, một phần do không nhận được sự đồng tình của cổ đông về việc nới room.

Chúng tôi cho rằng, việc hạn chế sở hữu nước ngoài đối với những ngành nghề liên quan đến an ninh quốc gia, an toàn hệ thống là thực sự cần thiết. Tuy nhiên, đối với các ngành nghề kinh doanh khác, cần tăng dần room cho các nhà đầu tư nước ngoài để khuyến khích hơn nữa luồng vốn quốc tế, hướng tới tự do luân chuyển vốn và mở rộng giao lưu kinh tế thương mại với các nước trên thế giới.

Mức độ tự do hóa của thị trường ngoại hối

Trong lĩnh vực ngân hàng, ngoại hối là mảng hoạt động có tính nhạy cảm cao, có mối quan hệ trực tiếp với kinh tế đối ngoại và chịu tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự ra đời của pháp lệnh ngoại hối năm 2005, tiếp đến là pháp lệnh ngoại hối sửa đổi, bổ sung năm 2013 đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước về ngoại hối và quản lý ngoại hối sao cho thực sự hiệu quả. Xu hướng quản lý hiện nay cho thấy nước ta đang hướng đến tự do hóa quản lý ngoại hối và các luồng vốn quốc tế.

Tuy nhiên, tốc độ loại bỏ hoặc giảm bớt các rào cản trong tự do hóa thương mại, tự do hóa tài chính và tự do hóa quản lý ngoại hối và luồng vốn quốc tế ở nước ta chưa đáp ứng được kỳ vọng của nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân do nước ta là nền kinh tế mở nhưng sức mạnh nội tại của nền kinh tế nhìn chung còn yếu. Điều này khiến cho chính sách quản lý ngoại hối của nước ta nhìn chung vẫn phải giành ưu tiên số một cho mục tiêu ổn định giá trị của đồng tiền, kiểm soát lạm phát, giữ vững sự ổn định kinh tế.

Screen Shot 2023-10-07 at 11.22.30 PM

Ông Phùng Xuân Minh, Chủ tịch HĐQT CTCP Sài Gòn Phát Thịnh Ratings.

Một số kinh nghiệm của các nước trên thế giới

Đối với yêu cầu ký quỹ trước giao dịch

Hiện nay trên thế giới chỉ còn rất ít TTCK sử dụng cơ chế ký quỹ trước giao dịch, cụ thể là chỉ còn Việt Nam, Nga, Đài Loan, Kenya, và Kazakhstan áp dụng cơ chế này. Đại đa số các thị trường phát triển và một số thị trường mới nổi đã và đang sử dụng tài sản đảm bảo như là một biện pháp quản lý rủi ro rất thành công. Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) cũng đánh giá việc sử dụng tài sản đảm bảo hiệu quả và hợp lý là một nguyên tắc quan trọng cho cơ sở hạ tầng của một thị trường tài chính phát triển.

Theo thực tế vận hành của các TTCK quốc tế cũng như TTCK Việt Nam, với đặc điểm giao dịch không hủy ngang (locked-in trade) thì chứng khoán/tiền của lệnh giao dịch sau khi được khớp chính là phần tài sản đảm bảo quan trọng cho giao dịch rồi. Do đó, yêu cầu phải ký quỹ 100% bằng tiền ngay tại thời điểm đặt lệnh giao dịch theo chúng tôi là quy định không cần thiết, gây trở ngại cho hiệu quả sử dụng vốn của nhà đầu tư và tính thanh khoản của thị trường.

Đối với vấn đề giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Để giải quyết vấn đề này, một số nước trên thế giới đã áp dụng mô hình "Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết’" (NVDR). Đây là một loại chứng chỉ lưu ký đặc biệt, được phát hành bởi một tổ chức thứ ba gọi là tổ chức phát hành NVDR (một công ty con của Sở giao dịch Chứng khoán). Tổ chức phát hành NVDR sẽ chuyển giao cho nhà đầu tư tất cả quyền lợi tài chính gắn liền với cổ phiếu như cổ tức, quyền mua cổ phiếu mới, v.v..

Theo kinh nghiệm thực tiễn từ một số quốc gia trong khu vực Châu Á, NVDR được xem như một giải pháp giúp các nhà đầu tư nước ngoài vượt qua thách thức liên quan đến tỷ lệ sở hữu tối đa, tăng tính cạnh tranh của thị trường. Với việc sở hữu NVDR, nhà đầu tư nước ngoài có đầy đủ quyền hưởng cổ tức tiền mặt, chia thưởng cổ phiếu nhưng không có quyền biểu quyết. Họ cũng có thể chuyển từ NVDR sang cổ phiếu thông thường trong trường hợp công ty niêm yết còn room cho sở hữu nước ngoài.

Đối với vấn đề tự do hóa thị trường ngoại hối

Tự do thị trường ngoại hối là xu hướng cải cách chung của các quốc gia đang phát triển nhằm hòa nhập vào thị trường quốc tế. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế này. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ các nước như Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia cho thấy cần thực hiện lộ trình tự do hóa thị trường ngoại hối một cách từng bước, thận trọng, có sự điều chỉnh phù hợp với tình hình phát triển thực tiễn để đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Trước khi tiến hành cải cách, tiến tới tự do hóa chuyển đổi ngoại hối cần tăng cường củng cố nội lực, đặc biệt là thị trường tài chính - tiền tệ trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, tự do hóa chuyển đổi ngoại hối chỉ có thể thành công khi nền kinh tế đáp ứng các điều kiện như: hệ thống ngân hàng lành mạnh, cơ chế tỷ giá hối đoái cải thiện theo hướng linh hoạt hơn, dự trữ ngoại hối quốc gia dồi dào.

Một số đề xuất giải pháp thực hiện

Loại bỏ quy định về yêu cầu ký quỹ trước giao dịch

Thay vì yêu cầu ký quỹ trước giao dịch, chúng ta có thể nghiên cứu cho phép nhà đầu tư sử dụng tài sản đảm bảo là tiền mặt, cổ phiếu và các loại trái phiếu. Cụ thể, tương tự như giao dịch cho vay ký quỹ (margin), Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) sẽ công bố danh sách chứng khoán đủ điều kiện làm tài sản đảm bảo với các tỷ lệ chiết khấu tương ứng. Trên cơ sở đó, các công ty chứng khoán căn cứ vào tài sản của nhà đầu tư đang có trong danh mục và tỷ lệ chiết khấu để xác nhận khả năng thanh toán tại ngày thanh toán T+2, từ đó xác định mức yêu cầu ký quỹ đảm bảo tại thời điểm đặt lệnh. Trong trường hợp tại ngày T+2, nhà đầu tư không hoàn thành nghĩa vụ thì tài sản đảm bảo sẽ được xử lý để đảm bảo nghĩa vụ thanh toán.

Để có thể làm được điều này, cần xây dựng cơ chế riêng đối với hoạt động bảo lãnh thanh toán cho các giao dịch chứng khoán hoặc cấp hạn mức tín dụng ngắn hạn cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các giao dịch chứng khoán. Cụ thể, chúng ta cần khẩn trương triển khai mô hình đối tác bù trừ trung tâm, trong đó ngân hàng lưu ký phải là thành viên thanh toán bù trừ. Cụ thể, sau khi đã được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép triển khai mô hình đối tác bù trừ trung tâm thì ngân hàng lưu ký sẽ là thành viên bù trừ, cùng với các thành viên bù trừ khác là các công ty chứng khoán.

Áp dụng mô hình chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết và từng bước nới tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài

Cần xem xét áp dụng mô hình chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR), trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng kinh nghiệm của các nước trên thế giới và đánh giá tác động của mô hình này lên cơ cấu sở hữu doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp niêm yết cũng cần phải được chuẩn bị kiến thức một cách đầy đủ và chi tiết để có thể hiểu và áp dụng các thay đổi này.

Từng bước mở rộng và công bố đầy đủ tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa của các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, hạn chế tiếp cận và chỉ hạn chế sở hữu nước ngoài đối với những ngành thực sự liên quan đến an ninh quốc gia. Ngay cả đối với một số lĩnh vực có tính chất nhạy cảm như tài chính – ngân hàng, vẫn có thể xây dựng giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài cho từng đối tượng cụ thể, tránh cào bằng. Ví dụ, hiện nay có mở rộng và khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các tổ chức tín dụng yếu kém và tổ chức tín dụng nhận chuyển giao; còn đối với các ngân hàng thương mại cổ phần khác, chưa nên điều chỉnh tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài vượt giới hạn 30% vốn điều lệ.

Từng bước tăng dần mức độ tự do hóa của thị trường ngoại hối

Chính sách quản lý ngoại hối cần xác định trọng tâm đối tượng quản lý và đưa ra thứ tự ưu tiên cụ thể để tiến hành cải cách cho phù hợp với tình hình thực tế. Ví dụ, trong tự do hóa giao dịch vốn, nên dỡ bỏ hạn chế đối với nguồn vốn FDI vào trong nước trước rồi đến FDI ra nước ngoài. Bên cạnh đó, cần tăng cường cơ chế phối hợp quản lý, giám sát giữa các cơ quan quản lý (Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Công Thương, Hải quan...) để xây dựng và hoàn thiện hệ thống phần mềm quản lý giám sát luồng luân chuyển vốn theo hướng hiện đại hóa, thuận tiện cho quá trình theo dõi và quản lý ngoại hối.

Quá trình tự do hóa quản lý ngoại hối và luồng vốn quốc tế cần được tiến hành hết sức thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế về sức mạnh nội tại của nền kinh tế Việt Nam còn nhiều hạn chế. Việc tự do hóa phải dựa trên quá trình phân tích, đánh giá thị trường, tình hình kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế mạnh mẽ, sâu rộng; đồng thời cũng có nhiều rủi ro, thách thức khi nền kinh tế có độ mở lớn. Ngoài ra, quá trình này còn phải tính đến tốc độ phát triển về trình độ nhân sự, chuyên môn của các cơ quan quản lý Nhà nước chức năng. Như vậy, mới có thể đảm bảo quá trình tự do hóa thị trường ngoại hối được thực hiện một cách an toàn và hiệu quả.

Khuyến khích các doanh nghiệp niêm yết minh bạch thông tin và chuẩn hóa hoạt động kế toán.

Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang áp dụng chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) nên đã và đang phát sinh nhiều vấn đề không còn phù hợp với yêu cầu công tác quản trị tài chính nội bộ và thông lệ kế toán – tài chính của thế giới. Do đó, cần tích cực thực hiện lộ trình của Chính phủ và Bộ Tài chính đã đề ra: đến năm 2025, thống nhất triển khai áp dụng hệ thống chuẩn mực Kế toán – Tài chính quốc tế IFRS của các đối tượng doanh nghiệp bắt buộc.

Ngoài ra, các công ty niêm yết cần có ý thức về việc cung cấp các thông tin cần thiết và quan trọng cho các đối tác, nhà đầu tư như các báo cáo kiểm toán tài chính định kỳ hàng năm và có thể cung cấp thêm báo cáo đánh giá Xếp hạng tín nhiệm. Đây là các tài liệu tham khảo có tính chất thông lệ thế giới, khách quan và có độ tin cậy cao, từ đó các nhà đầu tư sẽ có thông tin đầy đủ để nghiên cứu xem xét, đánh giá và đưa ra các quyết định đầu tư phù hợp với nhu cầu và khẩu vị rủi ro.

Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập (XHTN) có thể đóng góp gì cho quá trình phát triển và nâng hạng của TTCK Việt Nam?

Như chúng ta đã biết những lợi ích to lớn trong việc nâng hạng thị trường chứng khoán. Việc này đòi hỏi sự đóng góp đồng bộ của nhiều chủ thể tham gia thị trường. Trong đó, mỗi chủ thể tham gia thị trường có vị trí, chức năng và vai trò tác động ở các góc độ khác nhau. Các tổ chức XHTN độc lập nói chung và Saigon Ratings nói riêng cũng là một trong các tổ chức trung gian mắt xích quan trọng này:

Thứ nhất là, XHTN sẽ giúp doanh nghiệp minh bạch thêm thông tin đến các nhà đầu tư trên thị trường. Qua đó, góp phần thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu quốc gia; đồng thời tạo điều kiện cho những doanh nghiệp được xếp hạng thường sẽ “ghi điểm” trong mắt các nhà đầu tư hơn là các doanh nghiệp không có XHTN. Đây là điều hết sức quan trọng đối với các nhà đầu tư nước ngoài khi đòi hỏi các doanh nghiệp niêm yết công bố đa dạng thông tin khác nhau để có đánh giá chính xác hơn về doanh nghiệp và đồng thời tránh những thông tin không chính xác, bất lợi hoặc thông tin không chính thống và sự bất cân xứng thông tin trên thị trường.

Thứ hai là, bản thân các nhà đầu tư tham gia thị trường có thêm thông tin rất hữu ích về rủi ro tín dụng của các doanh nghiệp được xếp hạng. Các tổ chức XHTN đưa ra một góc nhìn về việc doanh nghiệp có khả năng thực thi các nghĩa vụ nợ đầy đủ và đúng hạn hay không, và từ đó các nhà đầu tư có thêm thông tin liên quan đến mức độ rủi ro để điều chỉnh các mô hình định giá, từ đó sẽ đánh giá chuẩn xác hơn tiềm năng phát triển của doanh nghiệp.

Thứ ba là, XHTN giúp thị trường tránh khỏi những “cú sốc” đột ngột như sự kiện một vài công ty bất động sản bị mất thanh khoản trong việc trả nợ trái phiếu trong thời gian vừa qua. Hậu quả của những cú sốc này là rất lớn và có sức lan tỏa ra cả thị trường. Những sự kiện thế này có thể sẽ ảnh hưởng đến tâm lý nhà đầu tư và khiến họ dè dặt hơn trong việc rót vốn vào thị trường vì mức độ biến động lớn từ những sự kiện tiêu cực này. Có thể thấy rằng, nếu các doanh nghiệp được xếp hạng bởi tổ chức XHTN độc lập thì thị trường sẽ hạn chế rất nhiều những cú sốc tương tự. Dựa trên những đánh giá về khả năng trả nợ và trả lãi của doanh nghiệp mà các tổ chức XHTN đưa ra, các bên tham gia thị trường có thể dự báo và lường trước các kịch bản có thể xảy ra, và từ đó hạn chế những sự “rung lắc” đột ngột này.

Thứ tư là, Saigon Ratings đã làm việc và nhận được thông tin phản hồi với một số quỹ đầu tư ngoại có nhu cầu rót vốn vào Việt Nam để đầu tư cổ phần vào các doanh nghiệp hoặc trái phiếu. Tuy nhiên, theo thông lệ các nước phát triển, thì các nhà đầu tư có thể yêu cầu các doanh nghiệp hoặc tổ chức phát hành, trong danh mục đầu tư phải được thực hiện đánh giá xếp hạng nhằm làm cơ sở cho việc tham khảo thông tin và đưa ra quyết định đầu tư. Và qua trao đổi, việc chưa phổ biến XHTN là một trong những vấn đề chính khiến các quỹ này phải e ngại trong việc rót vốn đầu tư vào Việt Nam. Chính vì lý do đó, chúng tôi đang từng bước kết hợp với các định chế tài chính, các bên hoạt động trên thị trường để thúc đẩy hoạt động xếp hạng này nhanh và phát triển hơn nữa để tạo sân chơi cũng như sự kết nối giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư nước ngoài.

Thứ năm là, những sự kiện tiêu cực trong thời gian vừa qua, của thị trường trái phiếu đã làm xói mòn niềm tin của phần lớn các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân trong nước và quốc tê. Việc này cho thấy rằng, hiện nay có lỗ hổng trong việc quản lý công bố thông tin đầy đủ và minh bạch của các tổ chức phát hành để nhà đầu tư tham gia thị trường có thể lượng hóa đầy đủ các yếu tố rủi ro trước khi quyết định đầu tư. Sự tắc nghẽn ở thị trường trái phiếu trong thời gian qua đã và đang gây trở ngại lớn cho việc huy động vốn của doanh nghiệp qua kênh này. Việc thành lập sàn giao dịch trái phiếu doanh nghiệp thứ cấp phần nào cũng đã khơi thông lại tính thanh khoản thị trường.

Cuối cùng, để thúc đẩy và phát triển về quy mô thị trường trong dài hạn, các văn bản pháp luật liên quan cũng cần được hoàn thiện, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp và vừa “nắn chỉnh” thị trường hướng đến sự ổn định bền vững. Trong dòng chảy này, các tổ chức XHTN đóng vai trò là bên độc lập thực hiện “dán nhãn” các doanh nghiệp phát hành và có trách nhiệm cung cấp thông tin minh bạch ra thị trường.

Kết luận

Việc nâng cấp TTCK nước ta lên thị trường mới nổi là nhiệm vụ hết sức cấp thiết nhằm thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng bền vững, an toàn, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, đồng thời thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài. Đây là mục tiêu tối quan trọng đã được Chính phủ đề ra lộ trình thực hiện và chỉ đạo rất sát sao. Do đó, tất cả các bên liên quan đều phải hiểu rõ trách nhiệm và nghĩa vụ để đóng góp và xây dựng các tiêu chí một cách đồng bộ để Việt Nam có thể nâng hạng lên thị trường mới nổi trong thời gian sớm nhất.

Quá trình này cần sự vào cuộc khẩn trương và nghiêm túc của không chỉ UBCKNN mà còn cần sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan hữu quan và cả các doanh nghiệp đã và sẽ niêm yết. Saigon Ratings chúng tôi hiểu rõ vai trò của một tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong sứ mệnh to lớn này và chúng tôi sẽ nỗ lực tối đa để đồng hành cùng với doanh nghiệp, nhà đầu tư và các bên liên quan thúc đẩy nhanh và mạnh hơn nữa để gia tăng sự minh bạch cũng như giảm thiểu việc bất cân xứng thông tin thị trường, để Việt Nam thật sự là điểm đến hấp dẫn của các dòng vốn ngoại.

(*) Ông Phùng Xuân Minh, Chủ tịch HĐQT CTCP Sài Gòn Phát Thịnh Ratings

Nhằm góp phần nâng cao nhận thức và hành động của thành viên thị trường về nâng hạng TTCK Việt Nam, đề xuất giải pháp thúc đẩy nâng hạng thị trường, Tạp chí Nhà đầu tư tổ chức Hội thảo "Nâng hạng thị trường chứng khoán và việc minh bạch thông tin của công ty niêm yết".

Hội thảo được tổ chức theo hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến với sự tham dự của lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, đại diện các bộ, ngành, Ban Kinh tế TW, Uỷ ban Kinh tế và Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, các chuyên gia kinh tế và các công ty kiểm toán, các thành viên thị trường.

Hội thảo dự kiến tổ chức tại Hà Nội, thứ Ba ngày 10/10/2023.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ