Hà Nội cho phép quán cà phê, nhà hàng, cửa hàng dịch vụ trong nhà được mở cửa lại từ 2/3

Nhàđầutư
Tại cuộc họp về phòng chống dịch COVID-19, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chử Xuân Dũng đã quyết định nới lỏng điều kiện kinh doanh với loại hình nhà hàng, quán cà phê trên địa bàn thành phố, cho phép mở cửa trở lại từ 0h ngày 2/3.
THANH TRẦN
01, Tháng 03, 2021 | 17:52

Nhàđầutư
Tại cuộc họp về phòng chống dịch COVID-19, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chử Xuân Dũng đã quyết định nới lỏng điều kiện kinh doanh với loại hình nhà hàng, quán cà phê trên địa bàn thành phố, cho phép mở cửa trở lại từ 0h ngày 2/3.

153332438_3890910707598338_4484442853811289962_o

Phó chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chử Xuân Dũng.  Ảnh: Phú Khánh

Chiều 1/3, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chử Xuân Dũng, Trưởng Ban chỉ đạo phòng chống COVID-19 Hà Nội đã chủ trì phiên họp trực tuyến với các quận huyện phường xã để có những biện pháp phòng chống dịch gắn liền với tháo gỡ một phần các biện pháp để đảm bảo đời sống người dân..

Báo cáo tại cuộc họp, ông Hoàng Đức Hạnh - Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội cho biết, tình hình dịch bệnh trên địa bàn cơ bản được kiểm soát, đã qua 14 ngày thành phố không ghi nhận ca mắc mới ngoài cộng đồng. Tuy nhiên, với đặc điểm của TP. Hà Nội, ông Hạnh dự báo trong thời gian tới vẫn có thể ghi nhận thêm ca mắc mới.

Theo Phó Giám đốc Sở Y tế Hà Nội, trong thời gian tới khi các địa phương nới lỏng các điều kiện để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế thì vẫn cần phải duy trì các biện pháp phòng chống dịch, đặc biệt là đảm bảo đúng khuyến cáo 5K của Bộ Y tế và phải tăng cường kiểm tra việc tuân thủ của các đơn vị.

Đại diện Sở Lao động, Thương binh và Xã hội Hà Nội cho biết, đơn vị này đã yêu cầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phun thuốc khử trùng để chuẩn bị đón học viên, sinh viên quay trở lại trường từ ngày 8/3. Các học viên quay trở lại trường phải được đo thân nhiệt ngay tại cổng, nếu phát hiện sốt cao thì cách ly ngay lập tức. Đơn vị cũng đã yêu cầu học viên, sinh viên đến từ các vùng dịch ở ngoại tỉnh phải có xác nhận xét nghiệm SARS-CoV-2 âm tính và phải khai báo với chính quyền nơi cư trú và cơ sở giáo dục trên địa bàn.

Phó Giám đốc CDC Hà Nội Khổng Minh Tuấn đề nghị, người đi đến, về từ Hải Dương từ 3/3 (ngày địa phương này kết thúc cách ly xã hội theo chỉ thị 16) phải tiếp tục khai báo y tế; những khu vực về từ các vùng Cẩm Giàng, Kinh Môn, Kim Thành và TP. Hải Dương khi về Hà Nội phải cách ly tại nhà 14 ngày. Nếu có kết quả xét nghiệm âm tính trong 3 ngày gần nhất thì được học tập, làm việc bình thường.

Kết luận cuộc họp, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chử Xuân Dũng lưu ý việc Hà Nội vẫn phải đối mặt với nguy cơ dịch bệnh nhưng trước tình hình thực tế dịch bệnh đang được kiểm soát tốt ở Thủ đô, UBND TP. Hà Nội đã quyết định về việc học sinh, sinh viên quay trở lại trường học tập.

"Ngày 8/3, học viên, sinh viên thuộc các trường nghề của Hà Nội quay lại trường, Sở LĐTB&XH phải có phương án cùng các đơn vị khác để nắm rõ nhất thông tin các trường hợp từ các tỉnh về. Với các trường thuộc thẩm quyền của Bộ GD&ĐT, TP đã có trao đổi để có phương án phân luồng, không về Thủ đô cũng một lúc. Bộ cũng đã chỉ đạo các trường tự chủ về thời gian. Có trường vẫn có thể thực hiện học trực tuyến. Hà Nội đã kiến nghị các trường này cho học sinh đi học trở lại sau 18/3 để kiểm soát tốt nhất", Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội cho biết.

Đáng chú ý, về vấn đề người dân đang rất quan tâm, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội thông tin, Thường trực Thành ủy đã quyết định, các cửa hàng kinh doanh dịch vụ trong nhà (kể cả ăn, uống – trong đó có hàng cà phê) sẽ được mở cửa trở lại từ ngày 2/3 nhưng phải đảm bảo giãn cách giữa người và người là 1m, hoặc là 2m nếu có tấm chắn.

"Vũ trường, quán bar, karaoke, internet, trà đá vỉa hè… vẫn không được hoạt động, chờ chỉ đạo của thành phố", Phó Chủ tịch Chử Xuân Dũng nói rõ.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ