Cổ phiếu ngân hàng 'đẩy' VN-Index lùi xa mốc 1.300 điểm

Nhàđầutư
Diễn biến tiêu cực tại nhóm cổ phiếu ngân hàng là nguyên nhân chính khiến VN-Index giảm điểm trong tuần qua.
NHẬT HUỲNH
18, Tháng 09, 2022 | 19:15

Nhàđầutư
Diễn biến tiêu cực tại nhóm cổ phiếu ngân hàng là nguyên nhân chính khiến VN-Index giảm điểm trong tuần qua.

Empty

Sau phiên giảm mạnh giữa tuần trước, giao dịch trên thị trường tuần qua tiếp tục diễn biến thận trọng. Ảnh Gia Huy.

Thị trường chứng khoán Việt Nam vừa ghi nhận một tuần giao dịch kém tích cực và khá thận trọng do đáo hạn phái sinh, các quỹ ETF thực hiện đảo danh mục, bên cạnh đó thông tin lạm phát của Mỹ trong tháng 8 cao hơn dự kiến và chứng khoán Mỹ giảm mạnh ngày 13/9 cũng tác động tới tâm lý chung của nhà đầu tư.

Về diễn biễn cụ thể, hầu hết các nhóm ngành chịu áp lực bán mạnh trong 3 phiên đầu tuần khiến cho chỉ số chung có lúc giảm sâu nhất về vùng điểm 1.230. Tuy nhiên, tại vùng hỗ trợ mạnh trong ngắn hạn của thị trường, dòng tiền bắt đáy đã có động thái quay trở lại giúp VN-Index thu hẹp đà giảm và dao động trong biên độ hẹp quanh 1.240 – 1.250. Sự rung lắc được thể hiện rõ ràng hơn trong phiên cuối tuần khi thanh khoản bán chủ động liên tục gia tăng khiến chỉ số chính mất mốc 1.240.

Đóng cửa tuần giao dịch (12/9-16/9), VN-Index ở 1.234,03 điểm, giảm 1,18% so với tuần trước đó. Lũy kế từ đầu năm, chỉ số mất điểm 17,64%. Còn HNX mất 4,13%, dừng ở 272,88 điểm. Kể từ đầu năm HNX-Index đã mất đến 42,43%. Trong khi đó UPCoM-Index giảm 1,3% trong tuần, đóng cửa ở 89,46 điểm.

Tổng giá trị giao dịch trên cả 3 sàn đạt 75.057 tỷ đồng, tương ứng 15.000 tỷ đồng/phiên, giảm 15,5% so với tuần trước. Khối lượng giao dịch tại sàn HoSE giảm 19,4% và giá trị giao dịch giảm 15,4%, tại HNX khối lượng giao dịch giảm 15,1% và giá trị giao dịch giảm 7,8%, sàn Upcom cả khối lương giao dịch và giá trị giao dịch cùng giảm mạnh lần lượt 50% và 29,3%.

Nguyên nhân giảm điểm chính của VN-Index trong tuần qua vẫn chủ yếu đến từ nhóm cổ phiếu ngân hàng. Cụ thể, trong top 10 cổ phiếu ảnh hưởng tiêu cực nhất tuần, nhóm cổ phiếu này có đến 4 cổ phiếu góp mặt, bao gồm BID, TCB, MBB và CTG.

Khối ngoại bán ròng trên hai sàn trong tuần qua với giá trị ròng đạt 901,19 tỷ đồng. Xét theo khối lượng ròng, STB là mã chứng khoán bị bán ròng nhiều nhất với 15,5 triệu cổ phiếu. Tiếp theo là FUEVFVND với gần 7,9 triệu cổ phiếu và VND với 7,6 triệu cổ phiếu. Ở chiều ngược lại, PVD là mã chứng khoán được mua ròng nhiều nhất với 12,0 triệu cổ phiếu.

Trong tuần thị trường chứng khoán Việt Nam đỏ lửa, bộ phận tự doanh công ty chứng khoán bán ròng cổ phiếu với giá trị hơn 1.200 tỷ đồng trên toàn thị trường. Cổ phiếu VPB của VPBank bị bán ròng mạnh nhất với quy mô gần 100 tỷ đồng, theo sau mà MWG (90,3 tỷ đồng), FPT (87,4 tỷ đồng), VCB (48,1 tỷ đồng).

Về diễn biến trên, SHS đánh giá điểm tích cực trong tuần qua là lực cầu ngắn hạn vẫn gia tăng ở các mã nhóm đầu tư công, năng lượng, lương thực. Trên góc nhìn dài hạn, thị trường vẫn đang tích lũy trên nền định giá ở mức thấp so với trung bình 5 năm gần nhất. Nhà đầu tư nên duy trì tỉ trọng hợp lý, chờ thêm các thông tin mới về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp khi quí III/2022 gần kết thúc, các thông tin vĩ mô, tăng trưởng GDP cũng như xu hướng của thị trường chung cải thiện để xem xét gia tăng thêm tỉ trọng đầu tư đối với các mã có tiềm năng tăng trưởng tốt.

Còn theo VCBS, vùng hỗ trợ ngắn hạn 1.230 vẫn được giữ vững cho thấy mốc điểm tâm lý này vẫn đáng tin cậy trong ngắn hạn. Do vậy, nhà đầu tư giữ vững tâm lý, không bán đuổi khi thị trường hoảng loạn, tận dụng những nhịp rung lắc mạnh để mua gom cổ phiếu đang tích lũy tốt trong biên độ 10% cho nhịp tăng sắp tới.

Ở góc nhìn thận trọng, TVSI nhận định áp lực giảm hiện tại vẫn còn dư âm trong tuần tới (19 - 23/9) cho tới khi Fed công bố xong quyết định của mình. Chiến lược phòng thủ tiếp tục được khuyến nghị (tỷ trọng cổ phiếu <50%) và các cơ hội mua đang tới ngày một gần hơn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ