Các nhà máy châu Á chật vật lấy đà trong bối cảnh nhu cầu của Trung Quốc yếu

Nhàđầutư
Các cuộc khảo sát hôm thứ Năm (1/2/2024) cho thấy các nhà máy ở châu Á có hiệu suất hoạt động không ổn định trong tháng 1, do nhu cầu yếu của Trung Quốc khiến nền kinh tế khu vực rơi vào tình trạng thiếu ổn định vào đầu năm 2024, theo Reuters.
HOÀNG AN
02, Tháng 02, 2024 | 06:40

Nhàđầutư
Các cuộc khảo sát hôm thứ Năm (1/2/2024) cho thấy các nhà máy ở châu Á có hiệu suất hoạt động không ổn định trong tháng 1, do nhu cầu yếu của Trung Quốc khiến nền kinh tế khu vực rơi vào tình trạng thiếu ổn định vào đầu năm 2024, theo Reuters.

Chỉ số quản lý mua hàng sản xuất toàn cầu (PMI) Caixin/S&P toàn cầu của Trung Quốc duy trì ở mức 50,8 trong tháng 1/2024, không thay đổi so với tháng 12/2023 và vượt mốc 50 điểm.

Kết quả này trái ngược với một cuộc khảo sát chính thức cho thấy hoạt động sản xuất đã giảm tháng thứ tư liên tiếp. Áp lực giảm phát cũng là một vấn đề kéo dài ở nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cho thấy tiềm ẩn nhu cầu yếu kém.

SX TQ Reuters

Công nhân làm việc trên dây chuyền sản xuất tại nhà máy ép lọc Jingjin ở Đức Châu, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc ngày 25/8/2022. Ảnh REUTERS/Siyi Liu

Tổng hợp lại, chúng chỉ ra một nền kinh tế vẫn đang hoạt động kém hiệu quả và phản ánh kỳ vọng của thị trường về nhiều biện pháp hỗ trợ chính sách hơn trong năm nay.

Bức tranh về các nền kinh tế châu Á khác lại khá chắp vá, trong đó một số nền kinh tế phải chịu gánh nặng từ nhu cầu yếu của Trung Quốc lại có những chỉ số tốt hơn những nền kinh tế khác.

Hoạt động sản xuất của các nhà máy ở Hàn Quốc trong tháng 1 đã mở rộng lần đầu tiên sau 19 tháng nhờ nhu cầu hàng hóa được cải thiện tại các thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Tuy nhiên, các cuộc khảo sát cho thấy hoạt động này đã giảm ở Đài Loan và Malaysia và mở rộng với tốc độ chậm hơn ở Philippines.

Toru Nishihama, nhà kinh tế trưởng về thị trường mới nổi tại Viện nghiên cứu Dai-ichi Life, cho biết: "Đối với các quốc gia như Hàn Quốc, tác động từ nhu cầu yếu của Trung Quốc đã được bù đắp phần nào nhờ khả năng phục hồi của xuất khẩu sang Hoa Kỳ".

Ông nói: "Nhưng cả nhu cầu bên ngoài và trong nước đều có vẻ yếu ở Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế toàn cầu thiếu động lực tăng trưởng chính, điều này là điềm xấu cho các nền kinh tế châu Á".

Hoạt động sản xuất tại Nhật Bản cũng suy giảm tháng thứ 8 liên tiếp trong tháng 1 do sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới sụt giảm, trong đó một số nhà phân tích cảnh báo về tác động do việc đình chỉ sản xuất tại Daihatsu, một đơn vị của hãng ô tô khổng lồ Toyota Motor Corp (7203.T).

Kế hoạch sản xuất của tập đoàn Toyota có tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Nhật Bản khi nó ảnh hưởng đến nhiều nhà cung cấp linh kiện trải rộng trên cả nước.

Dữ liệu hôm thứ Tư cho thấy sản lượng công nghiệp của Nhật Bản tăng trong tháng 12 nhưng các nhà sản xuất được chính phủ khảo sát dự kiến sản lượng sẽ giảm 6,2% trong tháng 1, với một quan chức chính phủ trích dẫn tác động của việc Daihatsu ngừng sản xuất.

Ngược lại, Ấn Độ chứng kiến hoạt động sản xuất cải thiện đáng kể trong tháng 1 với hoạt động của các nhà máy mở rộng với tốc độ nhanh nhất trong 4 tháng vừa qua nhờ nhu cầu mạnh mẽ.

Quỹ Tiền tệ Quốc tế hôm thứ Tư đã điều chỉnh tăng dự báo tăng trưởng của châu Á lên mức dự báo tăng trưởng 4,5% trong năm nay, do nhu cầu mạnh mẽ từ Mỹ và sự thúc đẩy từ các biện pháp kích thích dự kiến ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, tổ chức này cho biết sự phục hồi sẽ khác nhau giữa các nền kinh tế, với việc Nhật Bản có thể sẽ chứng kiến mức tăng trưởng chậm lại ở mức 0,9%, trái ngược với mức tăng trưởng dự kiến là 6,5% ở Ấn Độ.

IMF dự kiến nền kinh tế Trung Quốc sẽ tăng trưởng 4,6% trong năm nay, chậm lại so với mức 5,2% trong năm 2023.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ