Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng: 'Tầm vóc, vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới'

Nhàđầutư
Nhadautu.vn trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng tại hội thảo "Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2018 và đến năm 2020" do Nhadautu.vn và KPMG Việt Nam phối hợp tổ chức sáng nay, 15/5 tại Hà Nội.
BBT
15, Tháng 05, 2018 | 10:14

Nhàđầutư
Nhadautu.vn trân trọng giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng tại hội thảo "Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2018 và đến năm 2020" do Nhadautu.vn và KPMG Việt Nam phối hợp tổ chức sáng nay, 15/5 tại Hà Nội.

image

Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng 

Trước hết, thay mặt Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tôi rất vui và cảm ơn ban tổ chức đã mời tôi tham dự và phát biểu tại Hội nghị về triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2018 và đến năm 2020 ngày hôm nay. Tôi cho rằng, đây là một hội nghị quan trọng, được tổ chức trong bối cảnh cả nước đang hừng hực khí thế, phát huy những thành tựu kinh tế - xã hội đã đạt được trong năm 2017, tận dụng những yếu tố thuận lợi những tháng đầu năm 2018, nỗ lực phấn đấu thực hiện nhanh, hiệu quả những giải pháp đã đề ra, đẩy nhanh tốc độ phát triển toàn diện trên tất cả các lĩnh vực, hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,7% đã đề ra.

Thành tựu nổi bật nhất của năm 2017 là lần đầu tiên sau nhiều năm, chúng ta hoàn thành tất cả các chỉ tiêu kinh tế - xã hội được Quốc hội giao; đạt kết quả toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; các khu vực kinh tế như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều có mức tăng trưởng cao và đồng đều, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực. Đây là thành tựu quan trọng nhất, tạo đà thuận lợi để hoàn thành các nhiệm vụ, mục tiêu đề ra của Kế hoạch năm 2018, Kế hoạch 5 năm 2016-2020 và Chiến lược 10 năm 2011-2020.

Tầm vóc, vị thế và uy tín của Việt Nam được nâng lên một tầm cao mới; cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao vai trò và trách nhiệm của Việt Nam trong hội nhập và thực hiện các cam kết quốc tế; tổ chức thành công những sự kiện quốc tế lớn, quan trọng như APEC 2017, Hội nghị thượng đỉnh Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) 2018, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018. Thứ hạng của Việt Nam trên nhiều bảng xếp hạng của thế giới được cải thiện đáng kể, như: chỉ số môi trường kinh doanh tăng 9 bậc, chỉ số năng lực cạnh tranh tăng 5 bậc, chỉ số đổi mới sáng tạo tăng 12 bậc, xếp hạng về triển vọng của Việt Nam nâng từ mức ổn định lên mức tích cực...

Thành tựu này có ý nghĩa thiết thực, khẳng định nước ta đã lớn mạnh, không còn là một nước nhỏ, kém phát triển, góp phần đưa đất nước tham gia vào những sân chơi mới của thế giới, vừa làm cho đất nước phát triển, vừa đóng góp vào thịnh vượng chung của thế giới và khu vực.

Niềm tin trong nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp vào đường lối của Đảng, Nhà nước và tương lai phát triển của đất nước được củng cố, nhất là kết quả nổi bật của công cuộc phòng chống tham nhũng, kỷ luật, kỷ cương ngày càng được tăng cường. Thành tựu này đã đem lại không khí phấn khởi, lạc quan, hy vọng về một tương lai tốt đẹp của đất nước trước những chuyển biến mạnh mẽ của bối cảnh trong nước và quốc tế.

Những thành tựu quan trọng trên đã khơi dậy lòng tự hào dân tộc, tinh thần yêu nước, đoàn kết, thống nhất, tạo nên sức mạnh dân tộc, cùng nhau thi đua, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu để xây dựng và bảo vệ đất nước vững mạnh, phồn vinh, nhân dân được ấm no, hạnh phúc.

Như quý vị đã biết, kết quả phát triển kinh tế - xã hội những tháng đầu năm 2018 là hết sức khả quan, tiếp nối được đà phát triển của năm 2017. Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7,38%, là mức cao nhất của quý I trong 10 năm trở lại đây. Kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định, lạm phát trong tầm kiểm soát. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 4 tháng đầu năm duy trì ở mức thấp, tăng 2,8%. Thị trường tiền tệ và hệ thống ngân hàng ổn định, thanh khoản toàn hệ thống được đảm bảo. Giải ngân vốn FDI ước đạt 5,1 tỷ USD, tăng 6,3%. Số doanh nghiệp thành lập mới đạt trên 41,2 nghìn doanh nghiệp với số vốn đăng ký ước đạt khoảng 412 nghìn tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 73,76 tỷ USD, tăng 19%; xuất siêu ước đạt khoảng 3,39 tỷ USD...

Đây là những tín hiệu đáng mừng, nhất là trong bối cảnh trong nước và quốc tế đang có nhiều yếu tố thuận lợi, tác động tích cực đến nền kinh tế. Kinh tế thế giới duy trì đà tăng trưởng tốt, thương mại toàn cầu phát triển. Nền kinh tế Việt Nam đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng, dự báo sẽ được hưởng lợi từ sự phục hồi của kinh tế thế giới. Cùng với đó, nhiều chính sách cải cách, đổi mới trong nước tiếp tục phát huy hiệu quả, môi trường kinh doanh và cầu nội địa tiếp tục được cải thiện, tác động tích cực từ các hiệp định FTA, hiệp định CPTPP... Có nhiều lý do để chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng vào triển vọng phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm 2018 và những năm tiếp theo.

Tuy nhiên, chúng ta đều hiểu rằng, để đạt được những mục tiêu và kỳ vọng, còn rất nhiều việc phải làm, cần có sự  nỗ lực và tập trung rất lớn của các cấp, các ngành từ trung ương xuống địa phương, của tất cả các thành phần kinh tế, nhà nước, tư nhân, nước ngoài để giữ vững đà tăng trưởng, không chỉ cho năm 2018 mà còn cho những năm tiếp theo. Tại Hội nghị này, tôi muốn chia sẻ với quý vị một số việc quan trọng đã và đang triển khai nhằm hiện thực hóa những nhân tố thúc đẩy tăng trưởng, củng cố niềm tin của tất cả chúng ta vào triển vọng phát triển kinh tế của Việt Nam trong năm 2018 cũng trong 02 năm cuối của chu kỳ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.

Thứ nhất, về công tác đổi mới thể chế. Đây được coi là động lực mang tính nền móng, căn bản đối với tăng trưởng kinh tế, vừa là sự cần thiết phải đổi mới trong bối cảnh có nhiều thay đổi diễn ra nhanh chóng, vừa là yêu cầu bắt buộc để phát triển.

Trong những năm gần đây, công cuộc cải cách thể chế đã có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư, kinh doanh đã và đang được xây dựng trên tinh thần đổi mới mạnh mẽ như: Luật Quy hoạch, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa, Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công... tạo hành lang pháp lý chặt chẽ nhưng cũng hết sức thuận lợi để phát huy mọi lợi thế phục vụ cho phát triển nhanh và bền vững.

Điển hình như Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt. Luật được xây dựng với quan điểm tận dụng tối đa nguồn lực của đất nước, tạo lập các cơ chế vượt trội, mang tính cạnh tranh với các nước trên thế giới và khu vực, tạo ra sân chơi quốc tế mới trên chính lãnh thổ Việt Nam, thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tham gia, hợp tác, chuyển dịch mạnh mẽ để thích ứng. Dự án Luật này sẽ được Quốc hội xem xét và thông qua tại Kỳ họp thứ 5, tạo cơ sở pháp lý kịp thời để hình thành và phát triển 03 khu hành chính kinh tế đặc biệt, sớm trở thành động lực và cực tăng trưởng mới của cả nền kinh tế.

Tuy nhiên, đây mới chỉ là những bước đầu tiên. Nhìn tổng thể lộ trình cải cách thể chế, chúng ta vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Nhiệm vụ hoàn thiện thể chế cần tiếp tục đẩy mạnh, tạo chuyển biến rõ nét trong tăng trưởng và phát triển, thiết lập quan hệ rõ ràng về vai trò giữa nhà nước và các thành phần kinh tế, các yếu tố thị trường, cũng như hình thành các cơ chế nhằm giải phóng các nguồn lực phát triển. Mọi thành phần kinh tế đều phải tích cực, chủ động tham gia, đóng góp vào quá trình cải cách. Sự chuyển mình, đổi mới của mỗi thành phần kinh tế sẽ là yếu tố đẩy nhanh quá trình cải cách thể chế một cách mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn.

Thứ hai, về vấn đề năng suất lao động và tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Nâng cao năng suất lao động là nhân tố cốt lõi, quan trọng nhất nhằm cải thiện chất lượng tăng trưởng, thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, trong đó việc tận dụng được cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra nhanh, mạnh như vũ bão được coi là giải pháp hiệu quả nhất để nâng cao năng suất lao động, giúp các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam có thể đẩy nhanh tốc độ, thu hẹp dần khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới. Đây là cơ hội ngàn năm có một, nếu chúng ta không tận dụng được, chúng ta sẽ phải mất rất nhiều năm mới có thể có lại được cơ hội này.

Trong năm 2017 vừa qua, năng suất lao động của nền kinh tế đạt mức tăng 5,9% so với năm 2016 và bình quân giai đoạn 2011-2017 tăng 4,7%/năm. Điều đáng mừng là năng suất lao động có xu hướng gia tăng trong từng năm. Tuy nhiên, chúng ta chưa thể hài lòng, bởi đến nay, năng suất lao động của Việt Nam vẫn ở thứ hạng rất thấp so với khu vực (chỉ bằng 7% của Singapore, 17,6% Malaysia, 36,5% Thái Lan...).

Bên cạnh đó, năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) cũng đã có nhiều cải thiện trong 15 năm trở lại đây, tăng trưởng kinh tế đang chuyển dịch dần dựa vào các nhân tố chất lượng như thể chế, khoa học công nghệ, giáo dục... Năm 2017, tốc độ tăng TFP đạt khoảng 2,6%, đóng góp của tăng TFP vào tăng GDP khoảng 40,1%. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này là chưa rõ nét, nhiều chuyên gia cũng đã nhận định, kinh tế Việt Nam vẫn còn dựa nhiều vào yếu tố vốn và lao động. Trong khi các yếu tố này không còn là lợi thế và thậm chí có thể trở thành bất lợi dưới sự tác động của cuộc cách mạnh công nghiệp 4.0.

Chính vì lẽ đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang triển khai nhiệm vụ được Chính phủ giao, xây dựng đề án về các giải pháp thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế trong bối cảnh tác động và tận dụng cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Đồng thời, chúng tôi cũng đang nỗ lực tối đa để sớm hoàn thành đề án Chiến lược quốc gia về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 với trọng tâm là huy động sự tham gia rộng rãi của cả một thế hệ người Việt Nam đã và đang rất thành công trong các lĩnh vực về công nghệ, trí tuệ nhân tạo, internet kết nối vạn vật... cùng với việc hình thành các trung tâm công nghệ, đổi mới, sáng tạo, nghiên cứu triển khai hiện đại bậc nhất trên thế giới nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp 4.0 phát triển. Tôi cho rằng đây là các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thực hiện thành công các nhiệm vụ này sẽ là nhân tố quyết định tạo sự phát triển đột phá trong các ngành, lĩnh vực và của cả nền kinh tế.

Vừa qua chúng tôi có đi sang Mỹ, đến thung lũng Sillicon, chúng tôi thật sự ấn tượng và xúc động khi người Việt Nam đang làm việc tại các vị trí quan trọng các tập đoàn hàng đầu thế giới. Một bạn người gốc Huế, tên Quốc, chưa đến 40 tuổi hiện đang là 1 trong 3 người đóng vai trò là bộ não của Google. Các phần mềm của Google do bạn này thiết kế có thể kể đến như ô tô tự lái và phát hiện ung thư sớm.

Người Việt đang làm việc khắp nơi mà chưa tận dụng được. Chúng tôi sẽ kiến nghị nhanh chóng thành lập các phòng thí nghiệm, các trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp, vườn ươm công nghệ, hỗ trợ các doanh nghiệp startup phát triển. Chúng tôi sẽ huy động nguồn lực xã hội, tận dụng nguồn lực từ các đơn vị kinh tế tư nhân. Thực hiện thành công các nhân tố này có thể tạo nên sự đột phá trong sự phát triển của nền kinh tế.

Thứ ba, về vấn đề phát triển phát triển khu vực kinh tế tư nhân kết hợp với với sự liên kết mạnh mẽ giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực phát triển là một quan điểm đúng đắn của Đảng, đã được cụ thể tại Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5, Khóa XII. Đây là động lực mang tính dài hạn, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, nâng cao tính linh hoạt, năng động của nền kinh tế, góp phần thích ứng tốt với những biến động quốc tế. Đây là một bước tiến đáng kể về tư duy lý‎ luận và quan điểm, đường lối kinh tế của Việt Nam, thể hiện tính nhất quán của đường lối đổi mới theo hướng kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên động lực và sự yên tâm cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư được tự do kinh doanh theo pháp luật.

Trong những năm gần đây, số liệu tăng trưởng doanh nghiệp đã chứng minh sức hấp dẫn của môi trường kinh doanh Việt Nam. Năm 2017 tiếp tục đạt kỷ lục với 126 nghìn doanh nghiệp thành lập mới. Trong 4 tháng đầu năm 2018, có trên 41 nghìn doanh nghiệp được thành lập mới với số vốn đăng ký ước đạt 412 nghìn tỷ đồng, tăng 4,3% về số doanh nghiệp và tăng 11,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2017.

Cùng với tăng trưởng về số lượng các doanh nghiệp thành lập, Việt Nam cũng theo sát xu hướng thế giới trong khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo. Nhiều mô hình kinh doanh, công nghệ, ứng dụng, sản phẩm với giá trị vượt trội đã thu hút các quỹ đầu tư mạo hiểm, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào hệ sinh thái khởi nghiệp còn mới mẻ ở Việt Nam. Điều đó cho thấy sự nhanh nhạy, trình độ tư duy, khoa học, khả năng tiếp cận và nắm bắt thông tin của giới trẻ Việt Nam là rất tiên tiến. Đây sẽ là tiền đề để Việt Nam phát triển một thế hệ doanh nhân năng động, có tri thức, có khát vọng, có kinh nghiệm tham gia cạnh tranh trên thị trường và vươn lên nắm bắt tri thức công nghệ thế giới. Đặc biệt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra rộng khắp, chúng ta lại càng phải chuẩn bị sẵn sàng nguồn lực con người, nguồn lực vật chất để có thể tiếp cận, học hỏi và ứng dụng những công nghệ tiên tiến, áp dụng tại các ngành, lĩnh vực trọng yếu của đất nước, tạo sức bật cho nền kinh tế trong thập niên tới.

Cùng với khu vực kinh tế tư nhân trong nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng là một động lực tăng trưởng quan trọng.

Trong năm 2018, Việt Nam sẽ kỷ niệm 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài – kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ra đời. 30 năm thu hút FDI của Việt Nam cũng gần như đi cùng với hơn 3 thập kỷ Đổi mới của nền kinh tế. Không quá khó để thấy, trong thành công hôm nay của kinh tế Việt Nam, có đóng góp rất lớn của khu vực FDI. Có thể nói, vai trò quan trọng của FDI trong đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam nhiều năm qua và sẽ còn giữ vai trò như một thành phần kinh tế trụ cột của Việt Nam.

Đầu tư nước ngoài đã giúp làm thay đổi diện mạo nền kinh tế Việt Nam trên 3 phương diện: (i) duy trì được nguồn vốn đầu tư chiếm 18-25% tổng đầu tư toàn xã hội trong cả giai đoạn 1991-2017; (ii) FDI chiếm khoảng hơn 50% tổng giá trị sản xuất công nghiệp của Việt Nam, hơn 70% giá trị xuất khẩu hàng hóa; (iii) FDI tạo ra sự dịch chuyển các ngành nghề trong xã hội và tạo công ăn việc làm cho 3,7 triệu lao động trực tiếp cùng hàng triệu lao động gián tiếp.

Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến cho rằng, kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào khu vưc FDI. Tôi cho rằng, nhận định này là chưa công bằng. Bởi lẽ, khu vực kinh tế FDI đã trở thành một thành phần không thế thiếu đối với nền kinh tế Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế sâu rộng. Mặt khác, cần phải đặt vấn đề làm thế nào để khu vực kinh tế tư nhân trong nước phát triển nhanh hơn, bắt kịp tốc độ phát triển của khu vực kinh tế FDI, tham gia được chuỗi giá trị toàn cầu và tạo lập được sự liên kết chặt chẽ giữa hai khu vực, bổ trợ lẫn nhau, cùng nhau phát triển. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư sẽ tham mưu Đảng, Nhà nước một số định hướng lớn trong thu hút FDI trong bối cảnh mới, bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và kết nối được hai khu vực trong nước và nước ngoài thành thể thống nhất, cùng nhau phát triển và đóng góp ngày càng nhiều cho sự thịnh vượng chung của đất nước.

Tất nhiên, còn rất nhiều các nhân tố động lực khác để minh chứng cho triển vọng khả quan kinh tế Việt Nam trong năm 2018 cũng như những năm tiếp theo như về kết cấu hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cơ cấu lại nền kinh tế và trong từng ngành, lĩnh vực... Dư địa còn nhiều, vấn đề nhằm ở chỗ là làm thế nào khai thác được các dư địa này một cách nhanh, hiệu quả.

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi, chúng ta không được phép lơ là, bỏ qua những khó khăn, thách thức cả trước mắt và lâu dài. Kinh tế thế giới chứa đựng những rủi ro, thách thức như: yếu tố bất định từ những điều chỉnh chính sách của các nền kinh tế lớn; các vấn đề địa chính trị tiếp tục diễn biến khó lường; xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại; rủi ro tài chính, tiền tệ hiện hữu, nhất là ở thị trường chứng khoán toàn cầu; lộ trình tăng lãi suất của FED cùng xu hướng thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ gây sức ép đối với điều hành tỷ giá và lãi suất trong nước; áp lực về lạm phát do xu hướng tăng của giá hàng hóa cơ bản và giá dầu thế giới và việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế, giá dịch vụ giáo dục theo lộ trình; việc giảm thuế, dỡ bỏ thuế nhập khẩu theo cam kết của các FTA...

Mặc dù vậy, tình hình kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là hết sức tích cực. Song đây mới là bước đầu, nhiệm vụ đến cuối năm còn hết sức nặng nề đòi hỏi tất cả chúng ta cần hết sức nỗ lực, tiếp tục tập trung thực hiện nhanh, quyết liệt, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, nhất là trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất, kinh doanh và đầu tư của doanh nghiệp và người dân.

Trong trung và dài hạn, kinh tế Việt Nam những năm tới hứa hẹn cả những cơ hội và thách thức đan xen. Một số dự báo cho rằng, tăng trưởng GDP trung bình của Việt Nam giai đoạn 2018-2020 có thể đạt 6,85%, có năm đạt trên 7%. Mặc dù vậy, Chính phủ vẫn luôn ý thức được những vấn đề nội tại cũng như những tác động khách quan từ bên ngoài có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Mục tiêu mà chúng ta hướng tới là sự tăng trưởng bứt phá, tăng trưởng nhanh và bền vững trên cơ sở tận dụng thành tựu khoa học công nghệ của nhân loại, nhất là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế thị trường tiên tiến, phát triển nhanh, bền vững.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ