7 tháng đầu năm 2019 ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD

Nhàđầutư
Tổng cục Thống kê cho biết, 7 tháng đầu năm 2019 ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,6 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 16,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 18,6 tỷ USD.
HỒNG NGUYỄN
29, Tháng 07, 2019 | 12:13

Nhàđầutư
Tổng cục Thống kê cho biết, 7 tháng đầu năm 2019 ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,6 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 16,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 18,6 tỷ USD.

Cán cân thương mại hàng hóa 7 tháng ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD

Theo số liệu mới nhất vừa được Tổng cục Thống kê công bố cho thấy, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 7 tháng/2019 ước tính đạt 288,47 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu đạt 145,13 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước.

Đáng chú ý, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu 7 tháng của khu vực kinh tế trong nước đạt 12,2%, cao hơn tốc độ tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (5,6%) và tỷ trọng của khu vực kinh tế trong nước có xu hướng tăng lên, chiếm 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (cùng kỳ năm trước là 29%).

Tháng 7 ước tính xuất siêu 200 triệu USD. Tính chung 7 tháng năm 2019 ước tính xuất siêu 1,8 tỷ USD (cùng kỳ năm trước xuất siêu 2,6 tỷ USD), trong đó khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 16,8 tỷ USD; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) xuất siêu 18,6 tỷ USD.

xnk

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa 7 tháng/2019 ước tính đạt 288,47 tỷ USD với kim ngạch xuất khẩu đạt 145,13 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Ảnh minh họa

Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 32,5 tỷ USD

Tổng cục Thống kê cho biết, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7/2019 ước tính đạt 22,60 tỷ USD, tăng 5,5% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 6,99 tỷ USD, tăng 2,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 15,61 tỷ USD, tăng 6,9%.

Trong tháng 7, có một số mặt hàng xuất khẩu kim ngạch tăng so với tháng trước. Cụ thể: Hàng dệt may tăng 12,8%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 6,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 4,3%; giày dép tăng 3,9%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 7 tăng 9,3%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 16,4%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 6,4%.

Một số mặt hàng xuất khẩu có giá trị tăng khá như: Điện tử, máy tính và linh kiện tăng 19%; giày dép tăng 15,9%; gỗ và sản phẩm gỗ tăng 15,4%; hàng dệt may và máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng cùng tăng 11,2%.

Theo Tổng cục Thống kê, tính chung 7/2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính đạt 145,13 tỷ USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 44 tỷ USD, tăng 12,2%, chiếm 30,3% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 101,13 tỷ USD, tăng 5,6%, chiếm 69,7% (tỷ trọng giảm 1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).

Tổng cục Thống kê cho hay, trong 7 tháng có 24 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 88,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (4 mặt hàng đạt giá trị trên 10 tỷ USD, chiếm 51,6%), trong đó điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất đạt 27,3 tỷ USD, chiếm 18,8% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước.

Về thị trường hàng hóa xuất khẩu 7 tháng/2019, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 32,5 tỷ USD, tăng 25,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là thị trường EU đạt 24,3 tỷ USD, tăng 0,4%; Trung Quốc đạt 20 tỷ USD, tăng 0,1%; thị trường ASEAN đạt 15,2 tỷ USD, tăng 5,5%; Hàn Quốc đạt 10,7 tỷ USD, tăng 4,4%.

Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam

Về nhập khẩu hàng hóa, theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng 7 ước tính đạt 22,4 tỷ USD, tăng 14,9% so với tháng trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 9,3 tỷ USD, tăng 14,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 13,1 tỷ USD, tăng 15,4%.

Tổng cục Thống kê cho biết, trong tháng 7, kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng tăng so với tháng trước. Cụ thể: Xăng dầu tăng 44%; điện thoại và linh kiện tăng 30,2%; ô tô tăng 20,6%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 13,4%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 12,5%. So với cùng kỳ năm 2018, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Bảy tăng 5%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 14,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1%.

Một số mặt hàng có kim ngạch tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Phương tiện vận tải và phụ tùng tăng 164,3%; than đá tăng 122,1%; ô tô tăng 36,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 19,5%.

Tính chung 7 tháng/2019, kim ngạch hàng hóa nhập khẩu ước tính đạt 143,34 tỷ USD, tăng 8,3% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 60,83 tỷ USD, tăng 12,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 82,51 tỷ USD, tăng 5,3%.

Theo Tổng cục Thống kê, trong 7 tháng có 28 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 85,8% tổng kim ngạch nhập khẩu (2 mặt hàng đạt giá trị trên 20 tỷ USD, chiếm 34,2%).

Trong đó một số mặt hàng tăng so với cùng kỳ năm trướ như: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 28,2 tỷ USD (chiếm 19,7% tổng kim ngạch nhập khẩu), tăng 19%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 20,8 tỷ USD, tăng 12,7%; vải đạt 7,8 tỷ USD, tăng 4,6%; chất dẻo đạt 5,2 tỷ USD, tăng 1,5%; ô tô đạt 4,3 tỷ USD, tăng 69%.

Bên cạnh đó, một số mặt hàng có giá trị giảm so với cùng kỳ năm 2018: Điện thoại và linh kiện đạt 7,1 tỷ USD, giảm 4,4%; sắt thép đạt 5,7 tỷ USD, giảm 2,4%; kim loại thường đạt 3,7 tỷ USD, giảm 20%.

Về thị trường hàng hóa nhập khẩu 7 tháng năm 2019, Tổng cục Thống kê cho biết, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 42 tỷ USD, tăng 16,9% so với cùng kỳ năm trước; tiếp theo là thị trường Hàn Quốc đạt 26,6 tỷ USD, giảm 0,8%; thị trường ASEAN đạt 18,8 tỷ USD, tăng 5,2%; Nhật Bản đạt 10,5 tỷ USD, giảm 0,4%; thị trường EU đạt 8,29 tỷ USD, tăng 8,6%; Hoa Kỳ đạt 8,27 tỷ USD, tăng 8,6%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25455.00
EUR 26817.00 26925.00 28131.00
GBP 31233.00 31422.00 32408.00
HKD 3182.00 3195.00 3301.00
CHF 27483.00 27593.00 28463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16546.00 16612.00 17123.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18239.00 18312.00 18860.00
NZD   15039.00 15548.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3601.00 3736.00
SEK   2307.00 2397.00
NOK   2302.00 2394.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ