Việt Nam chỉ còn 170 doanh nghiệp xuất khẩu gạo

Nhàđầutư
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), tính đến 18/10/2023 danh sách thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo chỉ còn 170 doanh nghiệp.
THIÊN KỲ
19, Tháng 10, 2023 | 11:06

Nhàđầutư
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), tính đến 18/10/2023 danh sách thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo chỉ còn 170 doanh nghiệp.

gao - Copy

Tính đến 18/10/2023 danh sách thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo chỉ còn 170 doanh nghiệp. Ảnh: DNSE

Doanh nghiệp xuất khẩu giảm

Cũng theo số liệu công bố từ Bộ Công thương cách đây 2 tháng lượng doanh nghiệp xuất khẩu gạo là 270 thì đến ngày 18/10 giảm mạnh còn 170 doanh nghiệp. 

Theo công bố này thì TP.HCM là địa phương có nhiều thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo nhất với 37 thương nhân. Tiếp theo là TP.Cần Thơ với 36 thương nhân, Long An với 22 thương nhân, An Giang với 16 thương nhân.

Đáng nói một số địa phương như Hà Tĩnh, Thái Bình, Hậu Giang, Khánh Hòa, Nam Định, Vĩnh Long chỉ có duy nhất 1 thương nhân đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo.

Từ đầu năm đến nay, cả nước đã xuất khẩu 6,6 triệu tấn gạo, trị giá 3,66 tỷUSD, tăng 40,4% so với cùng kỳ năm trước, vượt trị giá của cả năm ngoái (3,45 tỷ USD) và là kết quả xuất khẩu cao nhất trong 10 năm. Giá xuất khẩu trung bình 9 tháng qua đạt 551,5 USD/tấn, tăng 13,7%.

Philippines vẫn đứng đầu về tiêu thụ gạo của Việt Nam, chiếm 38% trong tổng lượng và chiếm 36,5% trong tổng kim ngạch gạo xuất khẩu, với trên 2,44 triệu tấn, tương đương 1,29 tỷ USD,  giảm 1,1% về lượng, tăng 12,8% về trị giá so với cùng kỳ.

Dù tín hiệu thị trường khá tích cực song nhiều doanh nghiệp Việt lại không được trực tiếp xuất khẩu gạo.

Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản góp ý Dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 107/2018/NĐ-CP về kinh doanh xuất khẩu gạo theo công văn đề nghị của Bộ Công Thương. 

VCCI cho biết nhiều doanh nghiệp phản ánh về chi phí và thời gian đi lại để nộp hồ sơ và nhận Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh khá lớn. Việc kiểm tra đủ điều kiện về kho và máy xay xát vẫn do các Sở Công Thương thường xuyên thực hiện. 

VCCI cũng đề nghị cơ quan soạn thảo bãi bỏ quy định về thời hạn của Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xuất khẩu gạo. Bởi theo quy định hiện hành, sau mỗi 5 năm, doanh nghiệp phải xin cấp Giấy chứng nhận mới với thủ tục chứng minh đủ điều kiện kinh doanh tương tự như lần đầu. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị định 107/2018 và phản ánh của các doanh nghiệp, Sở Công Thương các địa phương vẫn thường xuyên kiểm tra định kỳ doanh nghiệp về việc đáp ứng điều kiện kinh doanh (kho và cơ sở xay xát) và kịp thời phát hiện, thu hồi Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với doanh nghiệp không đủ điều kiện.

Nhiều triển vọng 3 tháng cuối năm

Trong 9 tháng năm 2023, xuất khẩu gạo cả nước đạt 3,66 tỷ USD, tăng 40,4%, cao nhất từ trước tới nay. Với đà này, dự kiến cả năm 2023, xuất khẩu sẽ lập kỷ lục trên 8 triệu tấn, với kim ngạch khoảng 4,5 tỷ USD… Theo dự báo của các chuyên gia, cơ hội xuất khẩu gạo vẫn còn rất lớn khi các nước đang tăng cường nhập khẩu gạo để dự trữ.

Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy sản lượng lúa của cả nước 9 tháng năm 2023 ước đạt 32,1 triệu tấn (chiếm khoảng 74,7% tổng sản lượng cả năm), tăng 1,3% (so cùng kỳ năm trước). Sản xuất lúa 9 tháng đầu năm 2023 đạt khá do điều kiện thời tiết thuận lợi, tích cực chuyển đổi cơ cấu giống lúa; nâng cao trình độ kỹ thuật canh tác ở các địa phương. Điều này cũng đang tạo điều kiện thuận lợi cho việc tăng cường xuất khẩu gạo năm 2023 được dự báo đang tiếp tục có nhiều thuận lợi.

Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam VFA, giá gạo xuất khẩu 5% tấm tại thời điểm cuối tháng 9 đầu tháng 10/2023 dao động ở mức 613 - 617 USD/tấn; giá gạo 20% tấm ở mức 598 - 602 USD/tấn. Ở thời điểm cuối tháng 9/2023, giá gạo các nước đang có xu hướng giảm, gạo Việt Nam cũng đã giảm nhẹ so với tháng trước, nhưng vẫn đang ở mức cao nhất thế giới.

Trong 9 tháng của năm 2023, giá xuất khẩu gạo bình quân đạt 554 USD/tấn, tăng 14%. Tuy vẫn chưa đạt bằng giá gạo xuất khẩu bình quân của năm 2008, nhưng năm nay giá gạo xuất khẩu bình quân đạt mức cao nhất trong hơn 14 năm qua.

Như vậy, hiện nay giá gạo Việt Nam vẫn cao nhất thế giới, cao hơn gạo Thái Lan khoảng 20 USD/tấn, cao hơn gạo Pakistan 15 USD/tấn. Có thời điểm giá gạo lên đến 650 USD/tấn mà doanh nghiệp không thể gom đủ gạo để bán. Đây là mức giá cao nhất trong hơn 10 năm trở lại đây.

Theo ước tính của Tổng cục Thống kê, dự kiến cả năm 2023, sản lượng lúa đạt được từ 43 - 43,4 triệu tấn, tăng khoảng 650 - 700 nghìn tấn so 2022, vượt 170 nghìn tấn so với kế hoạch của ngành nông nghiệp nông thôn năm 2023. Dự báo, nhiều khả năng sẽ đạt được 7,5 triệu tấn gạo xuất khẩu trong năm 2023 mà vẫn đảm bảo an ninh lương thực trong nước.

Kịch bản cao nhất được các chuyên gia đầu ngành đưa ra là nếu thị trường tiếp tục thuận lợi, lượng gạo xuất khẩu vẫn duy trì được mức 800 nghìn tấn/tháng như tháng 9 vừa qua, thì trong 3 tháng cuối năm có thể xuất hơn 2 triệu tấn. Trong quý IV dự báo mỗi tháng sẽ xuất khẩu khoảng 500 nghìn tấn. Như vậy, khả năng cả năm sẽ xuất khẩu kỷ lục 8 triệu tấn gạo, lập kỷ lục kim ngạch 4,5 tỷ USD.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng dự báo trong 3 tháng cuối năm, dự kiến sẽ thu hoạch gần 10 triệu tấn lúa mùa và vụ thu đông, tương đương với hơn 5 triệu tấn gạo. Với sản lượng này, ngoài việc đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, vẫn còn dư khoảng 1,5 triệu tấn gạo có thể xuất khẩu.

Cơ hội xuất khẩu gạo từ nay đến cuối năm vẫn còn rất lớn khi các nước vẫn đang tăng cường nhập khẩu gạo để dự trữ. Đặc biệt, hiện nay sản xuất lúa gạo tại Malaysia vẫn cần nhập khẩu tới 30% để đảm bảo yêu cầu tiêu dùng và dự trữ trong nước.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ