Vì sao 'người đàn bà thép' Janet Yellen phải rời FED

Nhiệm kỳ 4 năm của bà Yellen tại FED nhiều khả năng sẽ khép lại với nhiều kế hoạch còn dang dở.
VÕ QUYỀN
05, Tháng 11, 2017 | 06:56

Nhiệm kỳ 4 năm của bà Yellen tại FED nhiều khả năng sẽ khép lại với nhiều kế hoạch còn dang dở.

yanet-yellen

 Bà Janet Yellen nhiều khả năng phải rời ghế Chủ tịch FED sau khi hết nhiệm kỳ vào tháng 2/2018

Truyền thông Mỹ đưa tin Tổng thống Donald Trump đã lựa chọn ông Jerome Powell làm Chủ tịch tiếp theo của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED), thay cho bà Yanet Yellen.

Nếu được Thượng viện Mỹ thông qua, ông Powell sẽ kế nhiệm bà Yanet Yellen khi nhiệm kỳ 4 năm của bà kết thúc vào tháng 2/2018. Diễn biến này cũng đánh dấu lần đầu tiên trong 4 thập kỷ, một vị chủ tịch FED chỉ trải qua một nhiệm kỳ duy nhất.

Trong 4 năm đảm nhiệm vị trí quyền lực bậc nhất ngành tài chính - tiền tệ toàn cầu, bà Janet Yellen đã góp phần cải thiện nền kinh tế Mỹ, tuy nhiên nhiều quyết sách điều hành của bà cũng gây ra sự tranh cãi gay gắt.

Thất nghiệp, lạm phát thấp song không ổn định

that-nghiep

 Tỉ lệ thất nghiệp và lạm phát của Mỹ được duy trì ở mức thấp, dù vậy vẫn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Ảnh: New York Times

Từ cuối những năm 70 của thế kỉ trước, FED đề ra hai mục tiêu chính là giảm tối đa có thể tỉ lệ thất nghiệp và ổn định giá cả. Xét theo hai tiêu chuẩn trên, nhiệm kỳ của bà Yellen có thể coi là thành công với tỉ lệ thất nghiệp đạt mức thấp nhất từ năm 2001, lạm phát nằm dưới ngưỡng an toàn 2%.

“Nền kinh tế đang tiến triển tốt trong vài năm qua. Chúng tôi tự tin vào sự ổn định và khả năng chịu đựng của nó”, bà Yellen phát biểu trước báo giới vào tháng 3/2017.

Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây ra sự bất ổn.

Theo New York Times, dù tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống chỉ còn 4,2% trong tháng 9/2017, mức lương cũng đang tiếp đà đi lên (Trung bình người lao động Mỹ kiếm được 26,2 USD mỗi giờ, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng tới 2,5% so với cùng kỳ năm ngoái), nhưng quan ngại về lạm phát vẫn đang hiện hữu trong nền kinh tế.

Những dự báo phi thực tế

thuc-te

 Những dự báo của FED dưới thời bà Yellen cách khá xa thực tế. Ảnh: New York Times

Dưới thời bà Yellen cũng như người tiền nhiệm Ben Bernanke, những nỗ hồi phục nền kinh tế sau khủng hoảng vẫn ở mức hạn chế.

Vào tháng 3/2014, không lâu sau khi bà Yellen nhậm chức, FED tuyên bố GDP (tổng sản phẩm quốc nội) sẽ tăng 3% mỗi năm cho tới 2016. Tuy nhiên trên thực tế, con số này thậm chí chưa chạm ngưỡng 2%.

Tăng trưởng èo uột đã trở thành một vấn đề lớn đối với nền kinh tế Mỹ trong nhiều năm trở lại đây. Những chính sách của bà Yellen thường được xây dựng dựa trên kỳ vọng về sức mạnh của nền kinh tế. Nhưng số liệu cho thấy một phần lớn các đánh giá và dự báo không sát với thực tế.

Thị trường chứng khoán 'bong bóng'

chung-khoan-my

 Chứng khoán Mỹ tăng nóng thời gian qua. Ảnh: New York Times

“Tin tôi đi, ngay lúc này, chúng ta đang ở trong một quả bong bóng khổng lồ. Điều duy nhất đang thể hiện tốt là sàn chứng khoán. Nhưng nếu nâng lãi suất lên chỉ một chút thôi, tất cả sẽ sụp đổ”. Ông Donald Trump phát biểu trong chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 2016.

Chỉ số S&P 500 tăng hơn 50% kể từ khi bà Yellen lên nắm quyền, chỉ số Nasdaq cũng tăng 2/3 so với trước đó.

Thị trường chứng khoán ngập trong sắc xanh là thông tin tốt cho giới đầu tư, bao gồm cả những công nhân đang cố gắng kiếm lại tiền lương hưu của mình sau khủng hoảng tài chính 2008.

Tuy vậy, theo giới chuyên gia, thị trường tăng nóng tiềm ẩn từ những rủi ro không lường trước được, với lo ngại FED có thể đang duy trì tốc độ tăng trưởng 'ảo' trên thị trường chứng khoán bằng việc khuyến khích giới đầu tư chấp nhận rủi ro lớn để lấy về kết quả cao hơn. Đây chính là điều đã xảy ra trước cuộc khủng hoảng cách đây 9 năm.

Võ Quyền (Theo New York Times)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ