TP.HCM đề nghị lùi thời gian thu phí hạ tầng cảng biển đến đầu quý II/2022

Ông Lê Hòa Bình, Phó chủ tịch UBND TP.HCM đã đề nghị HĐND thành phố cho lùi thời gian thu phí hạ tầng cảng biển đến ngày 1/4/2022.
LÝ TUẤN
18, Tháng 10, 2021 | 10:59

Ông Lê Hòa Bình, Phó chủ tịch UBND TP.HCM đã đề nghị HĐND thành phố cho lùi thời gian thu phí hạ tầng cảng biển đến ngày 1/4/2022.

a808c2a6be2a77742e3b1

Ông Lê Hòa Bình, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM phát biểu tại kỳ họp. Ảnh: HMC

Tại kỳ họp thứ 3, HĐND TP.HCM khóa X nhiệm kỳ 2021-2026 diễn ra sáng 18/10, ông Lê Hòa Bình, Phó Chủ tịch UBND TP.HCM đã đề nghị HĐND thành phố cho lùi thời gian thu phí hạ tầng cảng biển đến ngày 1/4/2022, chậm 6 tháng so với kế hoạch để hỗ trợ doanh nghiệp.

Đây là lần thứ 2 UBND TP.HCM đề nghị lùi thời gian thu phí hạ tầng cảng biển. Trước đó, vào giữa tháng 6/2021, UBND TP.HCM đã có tờ trình gửi HĐND TP.HCM về việc sửa đổi khoản 5 điều 1, Nghị quyết số 10/2020 của HĐND TP.HCM về ban hành mức thu phí sử dụng công trình, kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu cảng biển (phí hạ tầng cảng biển) trên địa bàn thành phố.

Tại tờ trình, UBND TP.HCM đề nghị HĐND TP.HCM xem xét, chấp thuận chủ trương điều chỉnh thời gian thu phí hạ tầng cảng biển trên địa bàn thành phố từ 0h ngày 1/7/2021 thành 0h ngày 1/10/2021.

Lý giải về việc điều chỉnh trên, UBND TP.HCM cho biết, tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh phải tạm ngừng, đời sống người lao động và người có thu nhập thấp gặp nhiều khó khăn. Đồng thời, thành phố cũng đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống, dịch. Do đó, việc điều chỉnh thời gian thu phí như trên sẽ tạo sự đồng thuận trong xã hội, góp phần hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố.

“Trong bối cảnh chưa thể tiêm vaccine COVID-19 toàn dân, đợt dịch bùng phát tháng 4/2021 có thể kéo dài đến tháng 7/2021. Vì vậy, mốc thời gian 3 tháng này được dựa trên kịch bản dịch COVID-19 có thể cơ bản được khống chế vào khoảng tháng 7, các doanh nghiệp có khả năng phục hồi trong 2 tháng tiếp theo”, UBND TP.HCM lý giải.

Bên cạnh đó, TP.HCM cũng cho rằng, nếu thực hiện thu phí hạ tầng cảng biển từ ngày 1/7 thì số thu dự kiến trong 3 tháng là 723 tỷ đồng. Trường hợp TP.HCM chưa thu phí trong 3 tháng này thì khoảng thu dự kiến này xem như là một khoản hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp xuất nhập khẩu để đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu kép vừa quyết liệt phòng, chống dịch bệnh COVID-19, vừa phát triển kinh tế - xã hội.

Theo đề án thu phí hạ tầng cảng biển đã được HĐND TP.HCM thông qua vào hồi tháng 12/2020, về mức thu phí, đối với hàng tạm nhập tái xuất, hàng gửi kho ngoại quan, hàng quá cảnh, hàng chuyển khẩu, áp dụng mức thu 50.000 đồng/tấn đối với hàng lỏng, hàng rời không đóng trong container; 4,4 triệu đồng/cont với container 40ft và 2,2 triệu đồng với container 20ft.

Đối với hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa xuất khẩu mở tờ khai ngoài TP.HCM, sẽ áp dụng mức 500.000 đồng/cont đối với container 20ft; 1 triệu đồng/cont đối với container 40ft và 30.000 đồng/tấn đối với hàng lỏng, hàng rời không đóng trong container.

Với hàng hóa nhập khẩu, hàng hóa xuất khẩu mở tờ khai tại TP.HCM, áp dụng mức thu là 250.000 đồng/cont đối với container 20ft; 500.000 đồng/cont với container 40ft và 15.000 đồng/tấn đối với hàng lỏng, hàng rời không đóng trong container.

TP.HCM miễn phí đối với hàng hóa nhập khẩu phục vụ trực tiếp cho an ninh, quốc phòng; hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu để phục vụ đảm bảo an sinh xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, dịch bệnh.

Đơn vị thực hiện thu phí là Cảng vụ đường thủy nội địa (thuộc Sở Giao thông Vận tải). Trong khi đó, Sở Giao thông Vận tải, Cục Hải quan TP.HCM và doanh nghiệp quản lý bến cảng phối hợp triển khai tổ chức thu, kiểm tra, giám sát việc nộp phí.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25455.00
EUR 26817.00 26925.00 28131.00
GBP 31233.00 31422.00 32408.00
HKD 3182.00 3195.00 3301.00
CHF 27483.00 27593.00 28463.00
JPY 160.99 161.64 169.14
AUD 16546.00 16612.00 17123.00
SGD 18454.00 18528.00 19086.00
THB 674.00 677.00 705.00
CAD 18239.00 18312.00 18860.00
NZD   15039.00 15548.00
KRW   17.91 19.60
DKK   3601.00 3736.00
SEK   2307.00 2397.00
NOK   2302.00 2394.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ