Tàu Cát Linh – Hà Đông chính thức chạy thử toàn tuyến

Nhàđầutư
Ngày 9/8, một đoàn tàu của Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội) được Tổng thầu cho chạy thử toàn tuyến, từ ga Cát Linh đến ga Yên Nghĩa và ngược lại.
PHAN CHÍNH
09, Tháng 08, 2018 | 18:26

Nhàđầutư
Ngày 9/8, một đoàn tàu của Dự án đường sắt Cát Linh - Hà Đông (Hà Nội) được Tổng thầu cho chạy thử toàn tuyến, từ ga Cát Linh đến ga Yên Nghĩa và ngược lại.

Ban Quản lý dự án đường sắt (Bộ GTVT) cho biết, đây không phải là vận hành thử nghiệm mà việc chạy tàu này là hoạt động bình thường do Tổng thầu thực hiện để căn chỉnh kỹ thuật các hạng mục. Theo yêu cầu công việc, Tổng thầu có thể cho tàu chạy trên tuyến chính hoặc đường thử tại, khu vực kỹ thuật tại Depot...

tau-cat-linh-ha-dong1(1)

Tàu điện Cát Linh - Hà Đông đã được chạy thử toàn tuyến.

Theo Ban Quản lý dự án Đường sắt, dự án sẽ vận hành thử nghiệm toàn tuyến vào tháng 8/2018. Sau 3-6 tháng vận hành thử nghiệm sẽ đưa dự án vào khai thác vận tải chính thức. 

Tuyến đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông có chiều dài hơn 13km, điểm đầu tại ga Cát Linh, điểm cuối tại ga Yên Nghĩa (Hà Đông). Toàn bộ 12 nhà ga trên cao và khu Depot dưới mặt đất có đường ray đôi khổ 1.435mm. Dự án có 13 đoàn tàu, mỗi đoàn 4 toa. Thời gian khai thác 3-5 phút/chuyến, tương lai 2 phút/chuyến; tốc độ thiết kế tối đa 80 km/h, tốc độ khai thác bình quân là 35 km/giờ.

Dự án đến nay đã hoàn thành khoảng 96% khối lượng xây lắp (chưa gồm hạng mục thiết bị) và đang triển khai các hạng như hoàn thiện các nhà ga, đường nội bộ, khu Depot, đấu nối thoát nước khu gian ga đường Vành đai 3. Tổng thầu đã đưa toàn bộ các đoàn tàu và khoảng 95% vật tư, thiết bị đã được đưa về công trường, trong đó đã hoàn thành lắp đặt khoảng 79%.

Trước đó, hồi tháng 5/2018, Bộ trưởng GTVT Nguyễn Văn Thể, đã chỉ đạo Ban QLDA Đường sắt và nhà thầu tập trung ưu tiên số 1 cho đảm bảo an toàn chạy tàu. Ưu tiên số 2 là hoàn thiện các phần việc để có thể đóng điện, vận hành được toàn hệ thống, từ đó mới biết được các yêu cầu về kỹ thuật hạ tầng, chạy tàu và thông tin tín hiệu… Bên cạnh đó, Bộ trưởng cũng yêu cầu hoàn thiện sớm các nhà ga, hạng mục hạ tầng phụ trợ, đẩy nhanh công tác giải ngân, đảm bảo vận hành kỹ thuật vào tháng 10/2018; khai thác thương mại vào tháng 12/2018.

Theo Bộ trưởng Thể, thời gian còn rất ngắn trong khi nhiều gói thầu còn chậm, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ mới có thể đảm bảo theo yêu cầu. Song song với tiến độ thì việc đảm bảo an toàn lao động, an toàn kỹ thuật trong giai đoạn vận hành thử nghiệm hay khai thác thương mại là cực kỳ quan trọng, không được lơ là.

Dự án có tổng mức đầu tư 552,86 triệu USD vào năm 2008. Trong đó, vốn vay Trung Quốc là 419 triệu USD (gồm 169 triệu USD vay ưu đãi, lãi suất 3% và 250 triệu USD vay ưu đãi bên mua 4%), vốn đối ứng Việt Nam là 133,86 triệu USD.

Đến năm 2016, tổng mức đầu tư của dự án tăng lên 868,04 triệu USD (tăng 315,18 triệu USD). Trong đó, phần vốn vay Trung Quốc là 669,62 triệu USD (tăng 250,62 triệu USD), vốn đối ứng Việt Nam là 198,42 triệu USD (tăng 64,56 triệu USD). Thủ tục vay vốn bổ sung đối với phần vốn vay Trung Quốc tăng thêm 250 triệu USD, dự kiến hoàn tất vào cuối tháng 3 nhưng đến nay, phía Trung Quốc mới tiếp tục đồng ý cho vay.

Ban Quản lý dự án (QLDA) Đường sắt - Bộ GTVT từng khẳng định nếu tiếp tục chậm tiến độ, dự án sẽ đứng trước nhiều thách thức, trong đó có tình trạng đội vốn vì lãi suất tăng từng ngày. Cụ thể, với số vốn 669,62 triệu USD đã vay từ Trung Quốc, theo tỉ giá hiện nay tương đương 14.718 tỉ đồng, chỉ tính lãi vay thấp nhất (3%/năm), mỗi ngày dự án phải trả lãi ít nhất 1,2 tỉ đồng. Số lãi này chưa tính vốn đối ứng 198,42 triệu USD từ ngân sách để thi công dự án.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ