So găng lợi nhuận nhóm ngân hàng ‘Big 4'

Đến nay, 3/4 ngân hàng quốc doanh (Vietcombank, VietinBank, BIDV) đã công bố báo cáo tài chính quý IV/2021 với kết quả lợi nhuận quý cuối năm 2021 biến động trái chiều.
QUANG THẮNG
30, Tháng 01, 2022 | 09:28

Đến nay, 3/4 ngân hàng quốc doanh (Vietcombank, VietinBank, BIDV) đã công bố báo cáo tài chính quý IV/2021 với kết quả lợi nhuận quý cuối năm 2021 biến động trái chiều.

Trong khi Vietcombank và BIDV vẫn duy trì đà tăng trưởng lợi nhuận tích cực trong quý vừa qua, VietinBank lại có một quý suy giảm lợi nhuận lên tới 46% so với cùng kỳ.

Cụ thể, báo cáo tài chính mới công bố của Vietcombank (HoSE: VCB) cho biết ngân hàng này tiếp tục có thêm một quý tăng trưởng lợi nhuận dương trong năm 2021, củng cố vững chắc vị thế ngân hàng quốc doanh có lợi nhuận cao nhất thị trường.

Trong quý cuối năm 2021, nhà băng này ghi nhận tổng cộng 14.870 tỷ đồng doanh thu hoạt động, tăng nhẹ 3% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, nguồn thu quan trọng nhất của Vietcombank là thu nhập lãi thuần với 10.781 tỷ đồng, cũng chỉ tăng nhẹ so với quý IV/2020.

vietcombank

 

Vietcombank lãi gần 27.400 tỷ đồng

Trong bối cảnh lãi thuần từ hoạt động dịch vụ sụt giảm 21%, các mảng kinh doanh ngoại hối, lãi thuần từ hoạt động khác đã trở thành động lực tăng trưởng chính cho Vietcombank.

Với doanh thu chỉ tăng nhẹ so với cùng kỳ, lý do chính giúp ngân hàng này duy trì được mức lợi nhuận tăng trưởng dương 2 con số trong quý IV/2021 chính là việc tiết giảm được 11% chi phí hoạt động và 5% chi phí dự phòng rủi ro tín dụng. Điều này đã giúp Vietcombank giảm được gần 600 tỷ đồng chi phí phát sinh trong kỳ.

Kết quả là ngân hàng ghi nhận khoản lãi trước thuế 8.064 tỷ đồng trong quý vừa qua, tăng 14% so với cùng kỳ. Đây cũng là quý kinh doanh đầu tiên lợi nhuận Vietcombank vượt mốc 8.000 tỷ trong lịch sử hoạt động.

Khoản lãi trước thuế kỷ lục kể trên đã nâng tổng lợi nhuận trước thuế cả năm 2021 của Vietcombank đạt 27.376 tỷ, cao hơn 19% so với năm liền trước, tương đương mức tăng ròng hơn 4.300 tỷ đồng.

Xét trên thị trường, Vietcombank vẫn là nhà băng có lợi nhuận trước thuế hợp nhất cao nhất hệ thống.

Cùng ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng dương trong quý IV/2021 là BIDV (HoSE: BID) với 2.868 tỷ đồng trước thuế, tăng 46%.

KQKD-big4

 

Tương tự Vietcombank, tổng thu nhập quý vừa qua của BIDV cũng không có nhiều thay đổi so với cùng kỳ khi đạt 15.252 tỷ, giảm 1,5%. Trong đó, nguồn thu lớn nhất của ngân hàng vẫn là hoạt động tín dụng với 10.853 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng gần 3% so với quý IV/2020.

Dù các mảng dịch vụ, ngoại hối, mua bán chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư của BIDV ghi nhận tăng trưởng dương trong quý vừa qua nhưng lãi thuần từ hoạt động khác và hoạt động góp vốn mua cổ phần sụt giảm mạnh đã khiến tổng doanh thu ngân hàng giảm nhẹ so với kỳ trước.

Cũng phải nhờ đến việc tiết giảm hơn 1.100 tỷ đồng chi phí hoạt động và dự phòng rủi ro tín dụng (chiếm chủ yếu) mà lợi nhuận quý IV/2021 của BIDV mới có mức tăng trưởng 2 con số kể trên.

Lũy kế cả năm 2021, BIDV ghi nhận 62.395 tỷ đồng doanh thu, tăng 25% và lãi trước thuế ngân hàng thu về đạt 13.602 tỷ đồng, tăng tới 51% so với năm liền trước, chính thức trở lại nhóm ngân hàng có lợi nhuận trên chục nghìn tỷ.

Tại cả Vietcombank và BIDV, lợi nhuận thu về năm 2021 đều là mức kỷ lục trong lịch sử hoạt động của 2 nhà băng.

Bốn ngân hàng lãi 3,18 tỷ USD

Trong khi đó, là ngân hàng có lãi cao thứ 2 trong nhóm, nhưng VietinBank lại là ngân hàng duy nhất bị suy giảm lợi nhuận trong quý cuối năm 2021.

Cụ thể, trong 3 tháng cuối năm vừa qua, VietinBank đạt 10.396 tỷ đồng thu nhập lãi thuần, tăng 1,1%. Trong bối cảnh lãi từ hoạt động cho vay, dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua bán chứng khoán đầu tư đi ngang, lãi thuần từ hoạt động khác trở thành động lực tăng trưởng chính của VietinBank khi cao gần gấp đôi so với cùng kỳ, mang về 1.469 tỷ đồng cho ngân hàng.

Kết quả là tổng thu nhập quý IV/2021 của VietinBank đã tăng hơn 5%, đạt 13.887 tỷ đồng.

Tuy vậy, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng gấp 6 lần đã bào mòn phần lớn mức lãi thuần từ hoạt động kinh doanh trước dự phòng của VietinBank. Kết quả là ngân hàng chỉ ghi nhận khoảng lãi trước thuế 3.678 tỷ đồng trong quý gần nhất, giảm tới 45% so với cùng kỳ.

Kết quả kém khả này là nguyên nhân chính khiến tổng lợi nhuận cả năm 2021 của VietinBank chỉ tăng chưa đầy 3% so với năm trước, đạt 17.589 tỷ, bất chấp mức tăng trưởng trong 3 quý đầu năm 2021 đã là 34%.

quy-mo-big4

 

Đối với Agribank, nhà băng này chưa công bố báo cáo tài chính quý IV/2021 nhưng ông Phạm Đức Ấn, Chủ tịch HĐTV cho biết năm vừa qua, ngân hàng đã thu về hơn 14.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế, tăng 6% so với năm 2020.

Như vậy, tổng lãi trước thuế 4 ngân hàng quốc doanh thu về trong năm vừa qua lên tới 72.567 tỷ, tương đương 3,18 tỷ USD quy đổi theo tỷ giá hiện tại.

So với năm 2020, mức lợi nhuận này đã tăng 16%, tương đương gần 10.200 tỷ.

Xét về quy mô tài sản, đến cuối năm 2021, BIDV là ngân hàng có tổng tài sản lớn nhất nhóm với gần 1,762 triệu tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm. BIDV cũng là nhà băng có số dư nợ cho vay khách hàng lớn nhất thị trường với hơn 1,354 triệu tỷ.

Xếp thứ 2 về quy mô tài sản là Agribank với số dư 1,68 triệu tỷ đồng, tăng 7,3%. Ngân hàng Nông nghiệp đồng thời xếp thứ 2 về số dư nợ cho vay khách hàng với 1,316 triệu tỷ đến cuối năm 2021, nhưng là ngân hàng dẫn đầu về số dư tiền gửi của khách hàng với trên 1,56 triệu tỷ đồng.

Trong khi đó, đến cuối năm 2021, VietinBank và Vietcombank có tổng tài sản lần lượt đạt 1,531 triệu tỷ và 1,415 triệu tỷ đồng, tăng 14% và 6,7% so với cuối năm 2020.

Số dư cho vay khách hàng tại VietinBank hiện đạt mức 1,13 triệu tỷ, trong khi số dư bên phía Vietcombank là 960.750 tỷ đồng. Số dư tiền gửi tại cả 2 nhà băng này hiện cũng đều đạt trên 1,1 triệu tỷ đồng.

(Theo Zing)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25154.00 25454.00
EUR 26614.00 26721.00 27913.00
GBP 31079.00 31267.00 32238.00
HKD 3175.00 3188.00 3293.00
CHF 27119.00 27228.00 28070.00
JPY 158.64 159.28 166.53
AUD 16228.00 16293.00 16792.00
SGD 18282.00 18355.00 18898.00
THB 667.00 670.00 698.00
CAD 18119.00 18192.00 18728.00
NZD   14762.00 15261.00
KRW   17.57 19.19
DKK   3574.00 3706.00
SEK   2277.00 2364.00
NOK   2253.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ