Nợ xấu Saigonbank là 6,5%

Nhàđầutư
Các chỉ tiêu tài chính của Saigonbank đồng loạt đi xuống, trong bối cảnh cơ cấu lãnh đạo cấp cao của ngân hàng này có biến động lớn.
XUÂN TIÊN
15, Tháng 08, 2018 | 17:52

Nhàđầutư
Các chỉ tiêu tài chính của Saigonbank đồng loạt đi xuống, trong bối cảnh cơ cấu lãnh đạo cấp cao của ngân hàng này có biến động lớn.

saigonbank

Nợ xấu của Saigonbank tăng liên tục từ năm 2015 đến nay

Theo báo cáo tài chính hợp nhất bán niên (đã kiểm toán) vừa công bố, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Công thương (SaigonBank) nửa đầu năm 2018 đạt thu nhập lãi 753,5 tỷ đồng, tăng nhẹ 2,4% so với cùng kỳ. Tuy nhiên chi phí vốn và chi phí hoạt động tăng cao khiến lợi nhuận sau thuế suy giảm mạnh, chỉ còn 89,6 tỷ đồng, giảm 30% so với 6 tháng đầu năm 2017.

Nhiều chỉ tiêu quan trọng khác của SaigonBank cũng đi xuống như cho vay khách hàng chỉ còn 13.724 tỷ đồng vào cuối tháng 6/2018, giảm 2% so với thời điểm đầu năm. Số dư huy động giảm hơn 4% về 14.223 tỷ đồng. Tổng tài sản giảm gần 600 tỷ đồng, tương đương mức giảm 2,8%.

Với tổng tài sản 20.725 tỷ đồng, SaigonBank hiện là ngân hàng bé nhất hệ thống xét theo tiêu chí này.

Đáng chú ý, dù tín dụng suy giảm, song nợ xấu của SaigonBank tăng mạnh theo giá trị tương đối lẫn tuyệt đối. Số dư nợ xấu (các nhóm 3,4,5) tại ngày 30/6/2018 là 897 tỷ đồng, gấp hơn hai lần thời điểm đầu năm (420 tỷ đồng), tỷ lệ nợ xấu theo đó tăng mạnh từ dưới 3% lên 6,5%.

Nợ xấu tăng mạnh ở cả ba nhóm, nợ có khả năng mất vốn (nhóm 5) tăng 44% lên 459 tỷ đồng, nợ nghi ngờ (nhóm 4) tăng 3,1 lần lên 238 tỷ đồng, nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3) tăng gấp 8 lần lên 201 tỷ đồng.

Nợ nhóm 2 (nợ cần chú ý) cũng tăng 22% lên 749 tỷ đồng. Nếu tính cả nhóm này thì tỷ lệ nợ quá hạn (các nhóm 2,3,4,5) trên tổng dư nợ lên tới 12%.

Đây là những con số rất đáng chú ý, khi nợ xấu 3% được coi là ngưỡng an toàn đối với các ngân hàng thương mại hiện nay.

SaigonBank đi xuống đáng kể trong bối cảnh phần lớn các ngân hàng nhỏ đều gặp rất nhiều khó khăn để giữ lại chút ít thị phần trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng vừa và lớn.

NCB chỉ lãi sau thuế vỏn vẹn 1,7 tỷ đồng trong Quý II, PGBank lãi 13,3 tỷ đồng, bằng 1/5 kết quả trong Quý I. VietABank cũng chỉ báo lãi 24 tỷ đồng, giảm tới 65% so với cùng kỳ. VietCapitalBank thậm chí còn lỗ 33,5 tỷ đồng trong Quý II.

Ở trường hợp SaigonBank, nguyên nhân còn có thể xuất phát từ cơ cấu lãnh đạo cấp cao của nhà băng này thời gian qua.

Ngày 19/6, SaigonBank đã thông qua việc ông Phạm Văn Thông, Chủ tịch HĐQT thôi giữ nhiệm vụ thành viên HĐQT do không còn là người đại diện vốn góp theo ủy quyền của Thành ủy TP.HCM.

Tỷ lệ nợ xấu của SaigonBank tăng liên tục từ mức 1,9% cuối năm 2015, lên 2,6% cuối năm 2016, gần 3% cuối năm 2017 và tại ngày 30/6/2018 là 6,5%.

Sau khi ông Thông rời ghế Chủ tịch, ông Vũ Quang Lãm, Thành viên HĐQT kiêm TGĐ SaigonBank cũng thôi giữ chức danh TGĐ để đảm nhiệm công việc của Chủ tịch HĐQT nhiệm kỳ 2013-2017. Bà Võ Thị Nguyệt Minh – Phó TGĐ thường trực chịu trách nhiệm điều hành hoạt động của SaigonBank thay cho ông Lãm.

Ông Phạm Văn Thông là nguyên Phó Chánh văn phòng Thành uỷ TP.HCM, và cũng chỉ mới ngồi "ghế" Chủ tịch SaigonBank từ tháng 6/2017 thay cho ông Trần Quốc Hải.

Trước đó, ông Phạm Văn Thông đã bị Uỷ ban Kiểm tra Thành uỷ TP.HCM đề nghị kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo và cho thôi chức Chủ tịch HĐQT SaigonBank do có sai phạm.

Sau biến động nhân sự nói trên, SaigonBank đã triệu tập Đại hội đồng cổ đông bất thường để bầu ra Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát nhiệm kỳ 2018-2023, dự kiến diễn ra vào tháng 8 này. Đây là những nội dung không được đưa ra trong Đại hội đồng cổ đông thường niên vào cuối tháng 6 vừa qua.

Hiện nay, Văn phòng Thành uỷ TP.HCM và Công ty TNHH MTV Xây dựng và Kinh doanh Nhà Phú Nhuận là hai cổ đông lớn nhất của SaigonBank, nắm giữ lần lượt 18,18% và 16,64% vốn. Hai cổ đông lớn còn lại là Công ty TNHH MTV Du lịch Thương mại Kỳ Hoà (16,35%) và Công ty TNHH MTV Dầu khí TP.HCM (14,08%).

Đầu năm nay, xuất hiện thông tin nhóm cổ đông Văn phòng Thành uỷ TP.HCM sẽ thoái hết vốn tại SaigonBank.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ