Nền kinh tế số Việt Nam đạt 14 tỷ USD, dự kiến đạt 52 tỷ USD vào năm 2025

Nhàđầutư
Báo cáo của Google, Temasek và Brain & Company cho biết, nền kinh tế Internet Việt Nam năm nay đạt quy mô 14 tỷ USD, tăng 16% so với 2019 và dự kiến đạt 52 tỷ USD vào năm 2025.
PHƯƠNG LINH
11, Tháng 11, 2020 | 06:16

Nhàđầutư
Báo cáo của Google, Temasek và Brain & Company cho biết, nền kinh tế Internet Việt Nam năm nay đạt quy mô 14 tỷ USD, tăng 16% so với 2019 và dự kiến đạt 52 tỷ USD vào năm 2025.

Theo báo cáo mới nhất về kinh tế số Đông Nam Á của Google, Temasek và Bain, đại dịch COVID-19 đã khiến cả hai lĩnh vực du lịch và gọi xe đều suy giảm 13%.

Báo cáo cho biết, nền kinh tế Đông Nam Á hiện đã đạt đến giá trị 100 tỷ USD và dự kiến vượt mốc 300 tỷ USD vào năm 2025, với 40 triệu người dùng internet mới ghi nhận trong năm 2020. Trong đó Việt Nam và Indonesia là hai quốc gia có nền kinh tế số tăng trưởng mức hai con số. 

Việt Nam dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, với nền kinh tế số tăng trưởng 16% từ 12 tỷ USD năm 2019 lên 14 tỷ USD trong năm nay. Indonesia, quốc gia đông dân nhất trong khu vực, tăng trưởng 11% từ 40 tỷ USD năm 2019 lên 44 tỷ USD trong năm nay.

2-HCM-700540-01

Việt Nam có nền kinh tế số tăng trưởng mức hai con số, đạt 14 tỷ USD trong năm 2020. Ảnh: PK

Kinh tế Internet của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ trên tất cả lĩnh vực, mạnh nhất là vận tải và thực phẩm. Theo đó, thị trường gọi xe, giao hàng và gọi đồ ăn năm nay đạt giá trị 1,6 tỷ USD, tăng đến 50% so với năm trước.

Quy mô của thị trường thương mại điện tử cũng tăng nóng với mức 46%, từ quy mô 5 tỷ USD lên 7 tỷ USD năm nay. Trong khi đó, truyền thông trực tuyến tăng trưởng 18%, đạt giá trị 3,3 tỷ USD. Riêng du lịch trực tuyến, do bị ảnh hưởng nặng bởi COVID-19 nên quy mô thị trường thu hẹp đến 28%.

Đại dịch cũng là yếu tố tác động và góp phần định hình lại nền kinh tế Internet của Việt Nam trong thời gian tới. Báo cáo ghi nhận nhiều người đã dùng thử các dịch vụ kỹ thuật số mới. Theo đó, trong tổng số người sử dụng dịch vụ kỹ thuật số, người dùng mới chiếm 41%, cao hơn so với mức trung bình của khu vực. Ngoài ra, 94% số người dùng mới này định tiếp tục sử dụng các dịch vụ đó kể cả sau đại dịch.

Do vậy, dự kiến vào năm 2025, toàn bộ nền kinh tế Internet Việt Nam có khả năng đạt giá trị 52 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân từ nay đến đó là 29%. Trong báo cáo năm 2019, nhóm nghiên cứu đã xác định 6 rào cản chính đối với sự tăng trưởng bao gồm: tiếp cận Internet, tài trợ vốn, niềm tin của người tiêu dùng, thanh toán, hậu cần và nhân tài.

screen_shot_2020_11_10_at_13_49_39_npxx

Giá trị nền kinh tế số của các nước Đông Nam Á trong giai đoạn 2015-2025. Nguồn: Báo cáo về kinh tế số Đông Nam Á mới nhất của Google, Temasek và Bain

Báo cáo năm nay cũng ghi nhận dòng chảy vốn vào nền kinh tế Internet Việt Nam. Năm 2019, tổng cộng có 151 thương vụ rót vốn trị giá 935 triệu USD vào các lĩnh vực Internet. Riêng quý I/2020, có 327 triệu USD chảy vào 73 thương vụ.

Theo Google, Temasek và Brain & Company, tâm lý lạc quan nhưng thận trọng đang bao trùm khu vực Đông Nam Á. Nhà đầu tư giao dịch ít hơn, ở mức định giá hấp dẫn hơn với hy vọng thu được lợi nhuận cao hơn trong dài hạn. "Nếu trước đây, mục tiêu của các nhà đầu tư luôn là 'tăng trưởng thần tốc', thì giờ họ chỉ muốn đạt mức tăng trưởng bền vững, có lợi nhuận", báo cáo viết.

Tại Việt Nam, sau khi đạt đến đỉnh điểm vào năm 2018, hoạt động tài trợ vốn cho doanh nghiệp khởi nghiệp trong các ngành như thương mại điện tử, vận tải và thực phẩm, du lịch và truyền thông đã chậm lại.

Dịch vụ tài chính kỹ thuật số (DFS) mới nổi là một trong số ít các lĩnh vực có nhiều nhà cung cấp dịch vụ lớn cạnh tranh với nhau. Đại dịch khiến các dịch vụ chăm sóc sức khỏe từ xa và giáo dục trực tuyến có nhiều cơ hội phát triển. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cho rằng 2 lĩnh vực này vẫn còn mới mẻ, với nhiều thách thức cần giải quyết để có khả năng thương mại hóa quy mô lớn.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ