Năng suất lúa của Việt Nam đạt cao nhất khu vực

Nhàđầutư
Chia sẻ tại hội nghị sơ kết sản xuất vụ lúa Thu đông, vụ mùa vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và vùng Đông Nam Bộ, diễn ra vào ngày 22/9 tại TP. Cần Thơ, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh lưu ý: nâng cao chất lượng, giảm giá thành là 2 con đường nâng cao vị thế của hạt gạo Việt Nam.
AN HÒA
22, Tháng 09, 2022 | 15:32

Nhàđầutư
Chia sẻ tại hội nghị sơ kết sản xuất vụ lúa Thu đông, vụ mùa vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và vùng Đông Nam Bộ, diễn ra vào ngày 22/9 tại TP. Cần Thơ, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh lưu ý: nâng cao chất lượng, giảm giá thành là 2 con đường nâng cao vị thế của hạt gạo Việt Nam.

Empty

Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Lê Quốc Doanh cho biết năng suất sản xuất lúa của Việt Nam đang dẫn đầu khu vực. Ảnh: Kim Anh

Theo Thứ trưởng Lê Quốc Doanh, với cơ cấu giống lúa phong phú, trình độ canh tác và của bà con nông dân hiện nay, năng suất lúa có thể đạt đến 7 tấn/ha cao nhất trong khu vực. Trong khi nông dân Thái Lan một năm chỉ sản xuất 1 vụ mùa, năng suất chỉ đạt 2,5 tấn/ha. Năng suất lúa thực tế đã tiệm cận với năng suất lý thuyết, dư địa tăng năng suất không còn nhiều. Do vậy, để nâng cao vị thế hạt gạo Việt Nam thì chỉ còn 2 con đường, đó là nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản xuất đến mức thấp nhất có thể.

"Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã có nhiều hoạt động hướng dẫn nông dân giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm như các chương trình 'một phải, năm giảm' (phải sử dụng giống xác nhận, giảm lúa giống, phân đạm, giảm thuốc bảo vệ thực vật , giảm nước tưới, giảm tổn thất sau thu hoạch)…

Thời gian gần đây, trước tình hình giá phân bón, thuốc bảo vệ thực vật tăng mạnh, qua tiếp xúc, được bà con nông dân cho biết nhờ chương trình hỗ trợ kỹ thuật sản xuất của ngành nông nghiệp bà con đã sử dụng ít lúa giống, ít phân bón nên vẫn đảm bảo được năng suất. Nhờ áp dụng các biện pháp sản xuất tiên tiến, bà con đã tiết kiệm được khá nhiều chi phí, đảm bảo được thu nhập trong lúc chi phí vật tư đầu vào leo thang", Thứ trưởng Doanh cho biết.

Về sản xuất lúa tại ĐBSCL, Phó Cục trưởng Cục trồng trọt Lê Thanh Tùng cho biết, cả năm 2022, diện tích gieo trồng của vùng này đạt gần 3,9 triệu ha, với năng suất bình quân là 6,2 tấn/ha, sản lượng ước đạt hơn 24,1 triệu tấn tương đương so với các năm trước.

Hưởng ứng các chương trình phát động giảm lượng giống lúa gieo sạ của Bộ NN&PTNT, nông dân các địa phương vùng ĐBSCL đã thay đổi tập quán gieo sạ lúa mật độ cao sang sạ thưa. Tỷ lệ nông hộ gieo sạ mật độ cao (từ 150kg/ha trở lên) đã giảm đáng kể chỉ còn chiếm khoảng 15%.

Bên cạnh đó, nhờ áp dụng cơ giới hóa đồng bộ trong sản xuất lúa như san lấp phẳng đồng ruộng, áp dụng máy sạ hàng và máy cấy,… đã góp phần giảm chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất.

quan canh

Bộ NN&PTNT khuyến cáo nông dân ĐBSCL giảm lượng giống gieo sạ, giảm sử dụng phân vô cơ để ứng phó với giá phân bón đang tăng hiện nay. Ảnh An Hòa

Về cơ cấu giống lúa, theo ông Tùng, vài năm gần đây cơ cấu giống lúa chất lượng cao, giống lúa thơm, nếp chiếm tỷ lệ khoảng 80%, góp phần nâng cao giá trị cho ngành gạo. Nếu như trước đây, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thường ở mức dưới 400 USD/tấn, thì hiện nay đã đạt ngưỡng 500 USD/tấn. Điều này cho thấy sự chuyển đổi cơ cấu giống, công tác nghiên cứu, chọn tạo, chuyển giao các giống lúa đã phát huy hiệu quả; thị trường xuất khẩu tốt hơn cũng góp phần đáng kể trong nâng cao vị thế hạt gạo Việt Nam.

"Về gieo sạ lúa Thu đông, hiện nay bà con nông dân cũng đã có sự dịch chuyển về thời gian gieo sạ sớm hơn mọi năm. Điều này không chỉ giúp bà con ứng phó với tình hình mưa bão, ngập lũ mà còn kéo theo vụ Đông xuân 2022 – 2023 được xuống giống sớm hơn, thu hoạch rơi vào tháng 3 – 4, thời tiết khô ráo, chất lượng lúa và giá bán sẽ cao hơn", ông Tùng nhận định.  

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25153.00 25453.00
EUR 26686.00 26793.00 27986.00
GBP 31147.00 31335.00 32307.00
HKD 3181.00 3194.00 3299.00
CHF 27353.00 27463.00 28316.00
JPY 161.71 162.36 169.84
AUD 16377.00 16443.00 16944.00
SGD 18396.00 18470.00 19019.00
THB 671.00 674.00 702.00
CAD 18223.00 18296.00 18836.00
NZD   14893.00 15395.00
KRW   17.76 19.41
DKK   3584.00 3716.00
SEK   2293.00 2381.00
NOK   2266.00 2355.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ