Mặt bằng nhà phố cho thuê tại TP.HCM gặp nhiều thách thức lớn

Nhàđầutư
Mặt bằng nhà phố cho thuê tại TP.HCM đang đối mặt với nhiều khó khăn, ngay cả những con phố thương mại tại quận 1 cũng rơi vào tình trạng này. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ dịch COVID-19 khiến khách du lịch không có, lưu lượng người lưu thông giảm đáng kể…
NGUYÊN VŨ
15, Tháng 11, 2020 | 07:10

Nhàđầutư
Mặt bằng nhà phố cho thuê tại TP.HCM đang đối mặt với nhiều khó khăn, ngay cả những con phố thương mại tại quận 1 cũng rơi vào tình trạng này. Nguyên nhân là do ảnh hưởng từ dịch COVID-19 khiến khách du lịch không có, lưu lượng người lưu thông giảm đáng kể…

Nhà phố cho thuê gặp nhiều thách thức

Tính đến quý 3/2020, tổng nguồn cung bán lẻ hiện đại tại TP.HCM đạt gần 1,5 triệu m2, tăng 1% theo quý và 5% theo năm. Trong đó, nguồn cung từ các trung tâm mua sắm chiếm tỷ trọng cao nhất 62% tổng nguồn cung và tăng trưởng liên tục với trung bình 17% mỗi năm. Loại hình bán lẻ này có xu hướng chuyển dịch ra các khu vực ngoài trung tâm với tốc độ tăng trưởng nguồn cung của khu vực ngoài trung tâm là hơn 20% mỗi năm trong khi tại trung tâm gần như ổn định trong 5 năm gần đây.

Trong 9 tháng năm 2020, dịch COVID-19 diễn ra đã tác động đến phân khúc trung tâm thương mại. Quý III/2020, phân khúc này có sự giảm nhẹ so với thời điểm quý IV/2019, nhưng vẫn duy trì ở mức cao 95%, trong khi giá cho thuê trung bình gần như không đổi.

Bà Võ Khánh Trang, Trưởng bộ phận nghiên cứu Savills Việt Nam cho biết: “Việc kiểm soát tốt dịch COVID-19 đợt 2 và công suất cao giúp các chủ nhà hi vọng vào thị trường. Ngoài ra, các trung tâm thương mại cung cấp dịch vụ tích hợp từ mua sắm, giải trí và ẩm thực nên lượng người mua sắm, tham quan tăng. Qua đó, tạo doanh thu cũng như quảng bá thương hiệu cho khách thuê".

89288639_2283390581956864_441849029773492224_n

So với trung tâm thương mại, mặt bằng nhà phố đối mặt với thách thức lớn. 

Việc hỗ trợ giá cho thuê đến khách thuê dưới tác động của dịch vẫn diễn ra ở các trung tâm thương mại và nhà phố. Tuy nhiên, số lượng dự án trung tâm thương mại áp dụng giảm giá thuê hỗ trợ khách thuê không nhiều, chủ yếu là khu vực ngoài trung tâm.

Một số hình thức hỗ trợ có thể kể đến như: Giảm 10 - 30% giá thuê ngắn hạn cho khách thuê mới hoặc các khách thuê bị ảnh hưởng kinh doanh do dịch bệnh, giảm từ 1 - 2USD phí dịch vụ. Trong khi đó, các dự án tại khu vực trung tâm gần như không đưa ra chính sách hỗ trợ nào khi tỷ lệ lấp đầy đạt gần 100% và các vị trí trống được cho thuê rất nhanh.

So với trung tâm thương mại, mặt bằng nhà phố đối mặt với thách thức lớn. Số lượng mặt bằng nhà phố cho thuê ra ngày càng nhiều, thế nhưng lượng khách thuê lại rất ít. Chỉ có nhà phố tại các tuyến đường có lưu lượng giao thông lớn mới được thuê nhanh chóng. Ngay cả các cung đường thương mại lớn như Hồ Tùng Mậu, Ngô Đức Kế, Lê Lợi hay Phạm Ngũ Lão tại quận 1 cũng khó cho thuê.

Khó khăn của phân khúc nhà phố là do lượng khách du lịch không có, lưu lượng người lưu thông giảm… Mặc dù chủ nhà chấp nhận giảm giá thuê trong ngắn hạn, thế nhưng người thuê vẫn trả mặt bằng, giảm diện tích và chuyển sang thương mại điện tử.

Theo ghi nhận thực tế, nhiều tuyến đường trung tâm TP.HCM, tình trạng mặt bằng nhà phố cho thuê bỏ trống vẫn rất nhiều, chưa có dấu hiệu cải thiện vì giá thuê vẫn cao so với các khu thương mại. Đơn cử như những tuyến đường quận 1 như: Ngô Đức Kế, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi… với mức giá cho thuê dao động từ 120 – 460triệu đồng/tháng với vị trí đẹp, diện tích hơn 120m2, còn lại từ 40 – 100 triệu đồng/tháng với diện tích dưới 100m2.

Hay như quận 3, quận Bình Thạnh tình trạng trả lại mặt bằng cho thuê cũng tương tự mặc dù trước đây là địa điểm nhộn nhịp với nhiều cửa hàng thời trang, mỹ phẩm, giày dép.

Đến những khu xa trung tâm thành phố hơn, dọc tuyến đường Nguyễn Văn Linh thuộc khu đô thị Phú Mỹ Hưng, quận 7, quận 2 nhiều cửa hàng đóng cửa triền miên, treo bảng cho thuê mặt bằng.

Trao đổi với chị Hương -  người chuyên môi giới nhà phố cho thuê ở quận 2, 3, Bình Thạnh cho biết: “Mình đã dẫn nhiều người đi xem nhà, nhưng họ đều từ chối khéo hoặc hẹn liên lạc sau. Giá cho thuê một căn hộ đã giảm khoảng 20% so với đầu năm 2020. Nhiều căn hộ 2 lầu cho thuê gần 18 - 20 triệu đồng/tháng mà cũng ít người thuê dù phí đặt cọc 3 tháng và thỏa thuận thu tiền 2 tháng/lần. Với mức giá trên 20 triệu đồng/tháng thì càng khó cho thuê hơn".

Thị trường bán lẻ có thêm hơn 50.000m2

Trong 3 tháng cuối năm 2020, thị trường dự kiến có thêm hơn 50.000m2 từ 7 dự án mới, trong đó khu vực ngoài trung tâm chiếm hơn 80% thị phần. Nhiều nhãn hàng nước ngoài hiện tạm hoãn kế hoạch gia nhập thị trường và doanh nghiệp hạn chế mở rộng. Điều này có thể ảnh hưởng đến công suất cho thuê.

Mặc dù dịch COVID-19 đã được kiểm soát, thế nhưng thị trường nhà cho thuê rất khó hồi phục. Nhiều căn hộ thương mại cho thuê phải đóng cửa. Doanh thu giảm sút từ thị trường bán lẻ khiến người cho thuê mặt bằng nhà phố chịu tác động, ảnh hưởng rất lớn. Bởi vậy, việc giảm chi phí thuê mặt bằng là điều đương nhiên, và là giải pháp để người cho thuê và người thuê mặt bằng kinh doanh cùng nhau vượt qua giai đoạn khó khăn này.

Theo khảo sát Savills Việt Nam, quý 3/2020, khách thuê thuộc ngành hàng F&B và thời trang có xu hướng trả mặt bằng hoặc giảm diện tích thuê để cắt giảm chi phí. Và trong thời gian tới, xu hướng này vẫn tiếp tục diễn ra.

Chính vì vậy, con số hơn 50.000m2 từ thị trường bán lẻ sẽ là dư thừa, bởi người thuê mặt bằng tại TP.HCM cũng chỉ đang trong quá trình vực dậy, kinh doanh cầm chừng sau ảnh hưởng của dịch. Trong khi, mặt bằng nhà phố cho thuê vẫn đang còn trống rất nhiều, dù đã giảm giá.

Với triển vọng kinh tế tích cực, tiêu dùng nội địa tăng và tác động từ các Hiệp định thương mại tự do FTA và EVFTA sẽ tạo động lực thúc đẩy cho ngành bán lẻ Việt Nam. Sự hợp tác giữa các nhà bán lẻ Việt Nam và EU được kì vọng sẽ tạo ra nhiều cơ hội mở rộng thị trường giúp các doanh nghiệp phát triển nhanh chóng, bền vững.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24620.00 24635.00 24955.00
EUR 26213.00 26318.00 27483.00
GBP 30653.00 30838.00 31788.00
HKD 3106.00 3118.00 3219.00
CHF 26966.00 27074.00 27917.00
JPY 159.88 160.52 167.96
AUD 15849.00 15913.00 16399.00
SGD 18033.00 18105.00 18641.00
THB 663.00 666.00 693.00
CAD 17979.00 18051.00 18585.00
NZD   14568.00 15057.00
KRW   17.62 19.22
DKK   3520.00 3650.00
SEK   2273.00 2361.00
NOK   2239.00 2327.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ