Khai mạc Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV: Sẽ chất vấn việc thực hiện lời hứa của các thành viên Chính phủ

Sáng nay (22/10), Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV khai mạc tại hội trường Diên Hồng. Tại kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ làm việc trong 24 ngày, dự kiến bế mạc vào 21/11.
PV
22, Tháng 10, 2018 | 09:59

Sáng nay (22/10), Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV khai mạc tại hội trường Diên Hồng. Tại kỳ họp lần này, Quốc hội sẽ làm việc trong 24 ngày, dự kiến bế mạc vào 21/11.

khai-mac-ky-hop-quoc-hoi

 

Xem xét thông qua 9 dự án luật

Tại kỳ họp lần này, các đại biểu sẽ tiến hành hoạt động chất vấn; xem xét, thông qua 9 dự án luật và cho ý kiến vào 6 dự án luật khác, trong đó có: Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi); Luật Công an nhân dân (sửa đổi); Luật Đặc xá (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học; Luật Cảnh sát biển Việt Nam; Luật Bảo vệ bí mật nhà nước...

20 doanh nghiệp lớn bán cổ phần lần đầu trong 9 tháng

Về tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ cho biết, đã có 20 doanh nghiệp lớn bán cổ phần lần đầu trong 9 tháng năm 2018, thu về 20.300 tỷ đồng; riêng thoái vốn thu về 7.900 tỷ, nâng tổng luỹ kế lên 170.000 tỷ đồng.

Cùng với đó phương án cơ cấu lại 51 tổ chức tín dụng đã được phê duyệt, nợ xấu toàn hệ thống giảm còn khoảng 2%. Dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước, hết tháng 6/2018 nợ xấu là 2,09%, giảm 0,37% so với cuối năm 2016. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống ngân hàng là 12,27%, cao hơn 3,27% mức tối thiểu.

Kỳ họp này dự kiến có số phiên họp được tường thuật trực tiếp nhiều nhất từ trước đến nay với 15 phiên, chiếm khoảng 31,25% toàn thời lượng.

Trong tuần làm việc này, cùng với nội dung bầu Chủ tịch nước; các đại biểu sẽ lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn và thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội.

Đây là lần đầu tiên Quốc hội yêu cầu Chính phủ báo cáo kết quả 3 năm thực hiện các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, kế hoạch tài chính, đầu tư công trung hạn (trước đây là báo cáo kết quả 5 năm). Trong quá trình thảo luận tại hội trường, các thành viên Chính phủ sẽ phát biểu, làm rõ một số vấn đề đại biểu nêu.

Phát biểu khai mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho biết kỳ họp thứ 6 diễn ra giữa nhiệm kỳ nên Quốc hội sẽ xem xét nhiều nội dung quan trọng về kinh tế - xã hội và ngân sách.

Tại kỳ họp, Quốc hội sẽ chất vấn việc thực hiện lời hứa của các thành viên Chính phủ, Chánh án toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; lấy phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn; bầu Chủ tịch nước; xem xét miễn nhiệm và phê chuẩn nhân sự Bộ trưởng Thông tin Truyền thông...

"Tôi trân trọng đề nghị các vị đại biểu Quốc hội nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung nghiên cứu, tích cực phát biểu góp phần làm nên thành công của kỳ họp", Chủ tịch Quốc hội nói.

Năm 2018 tăng trưởng GDP sẽ trên 6,7%

Phát biểu trước Quốc hội tại phiên khai mạc sáng nay, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt "tăng cường kỷ luật kỷ cương; xây dựng hệ thống hành chính liêm chính, hành động, phục vụ; tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi".

Chính phủ kiên định mục tiêu đề ra từ đầu nhiệm kỳ là ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.

Theo Thủ tướng, trước những biến động phức tạp của tình hình trong nước, thế giới, nhất là chiến tranh thương mại, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, nền kinh tế vẫn đạt những tín hiệu tích cực.

Tăng trưởng GDP 9 tháng đạt 6,98%, cả năm dự kiến vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (6,7%); chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân ước cả năm dưới 4%, là năm thứ 3 liên tiếp kiểm soát dưới 4%. Tín dụng 9 tháng tăng 10,41% (cùng kỳ tăng 12,21%), cả năm tăng dưới 17%. 

Thu ngân sách cả nước ước vượt 3% dự toán, trong đó tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu, dầu thô giảm, thu nội địa tăng (gần 82% tổng thu). 

Về bội chi, theo lãnh đạo Chính phủ, năm 2018 khoảng 3,67% GDP, thấp hơn mục tiêu 3,7%. Tỷ lệ này sẽ giảm về 3,4% sau 2 năm nữa. Nợ công khoảng 61,4% GDP, thấp hơn mức 63,7% năm 2016. 

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước cả năm đạt 34% GDP, trong đó tỷ trọng đầu tư ngoài nhà nước giảm, đầu tư tư nhân tăng đạt 42,4%. Giải ngân vốn đầu tư nước ngoài FDI khoảng 18 tỷ USD, cao nhất từ trước đến nay.

Thu nhập bình quân đầu người đạt 2.540 USD

Theo Thủ tướng, nhờ kinh tế xã hội phát triển ổn định, quy mô nền kinh tế tăng mạnh, năm 2018 ước đạt trên 5,5 triệu tỷ đồng (khoảng 240,5 tỷ USD), gấp trên 1,3 lần năm 2015.

GDP bình quân đầu người ước đạt 2.540 USD, tăng 440 USD so với năm 2015. 

Thủ tướng cũng cho biết, nếu tính theo ngang giá sức mua (PPP) thì thu nhập đầu người năm 2018 ước đạt 7.640 USD, với mức tăng bình quân 6% hàng năm, đến năm 2020 sẽ đạt khoảng 8.580 USD. "Nhiều tổ chức quốc tế đánh giá Việt Nam có triển vọng tốt, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới", Thủ tướng nhấn mạnh.

Liên quan tới môi trường kinh doanh, dẫn kết quả đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết, năm 2017 Ngân hàng Thế giới (WB) xếp hạng chỉ số kinh doanh của Việt Nam tăng 14 bậc, lên vị trí 68. Còn Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu (EuroCham) đánh giá chỉ số môi trường kinh doanh (BCI) thực hiện quý II/2018 rất lạc quan, tăng 6 bậc so với quý I/2018. 

Kết quả này có được là nhờ Chính phủ thực hiện chủ trương cắt giảm 50% thủ tục hành chính, trong đó đã cắt giảm, đơn giản hóa 61% điều kiện kinh doanh và 60% thủ tục kiểm tra chuyên ngành hàng hóa xuất nhập khẩu. Chi phí kinh doanh cũng được cắt giảm mạnh, nhất là chi phí vốn, phí BOT, chi phí tuân thủ thủ tục hành chính... Ngoài ra, Việt Nam được đánh giá thuộc nhóm 10 quốc gia cam kết mạnh mẽ nhất về cải cách chính sách thuế.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25185.00 25187.00 25487.00
EUR 26723.00 26830.00 28048.00
GBP 31041.00 31228.00 3224.00
HKD 3184.00 3197.00 3304.00
CHF 27391.00 27501.00 28375.00
JPY 160.53 161.17 168.67
AUD 16226.00 16291.00 16803.00
SGD 18366.00 18440.00 19000.00
THB 672.00 675.00 704.00
CAD 18295.00 18368.00 18925.00
NZD   14879.00 15393.00
KRW   17.79 19.46
DKK   3588.00 3724.00
SEK   2313.00 2404.00
NOK   2291.00 2383.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ