Hé lộ mức lương 'khủng' của TGĐ Công ty Nông nghiệp Sài Gòn vừa bị kỷ luật

Nhàđầutư
Lãnh đạo Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn có thu nhập tăng đột biến trong năm 2016.
XUÂN TIÊN
08, Tháng 03, 2018 | 12:00

Nhàđầutư
Lãnh đạo Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn có thu nhập tăng đột biến trong năm 2016.

tong-cong-ty-nong-nghiep-sai-gon-le-tan-hung

 

Như Nhadautu.vn đã đưa tin, Chủ tịch UBND TP. HCM ông Nguyễn Thành Phong vừa ra quyết định kỷ luật, hình thức khiển trách đối với ông Lê Tấn Hùng, Thành viên HĐTV, Tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn (Sagri).

Ông Lê Tấn Hùng (SN 1963) được xác định là vi phạm nguyên tắc kế toán quy định tại khoản 4 Điều 6 Luật Kế toán năm 2003. 

Khoản 4, Điều 6 Luật Kế toán 2003 quy định "Yêu cầu kế toán là phản ánh trung thực hiện trạng, bản chất sự việc, nội dung và giá trị của nghiệp vụ kinh tế, tài chính".

Liên quan sai phạm của ông Hùng, Ban Thường vụ Thành ủy, Ban chấp hành Đảng bộ TP HCM cũng đang xem xét xử lý về mặt Đảng. 

Ông Lê Tấn Hùng là em trai nguyên Bí thư Thành ủy TPHCM Lê Thanh Hải. Trước khi làm Tổng giám đốc Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn, ông là Chỉ huy trưởng lực lượng Thanh niên xung phong TP HCM. 

Lãnh đạo, nhân viên nhận lương 'khủng' 

Theo báo cáo chế độ lương, thưởng của Sagri, 658 lao động của tổng công ty theo kế hoạch nhận được thu nhập bình quân 11,488 triệu đồng/ tháng trong năm 2016, tuy nhiên con số này thực hiện là 17,117 triệu đồng. 

Đối với 9 người quản lý doanh nghiệp (trong đó có ông Lê Tấn Hùng), mỗi người thực nhận mức thu nhập bình quân 55,84 triệu đồng/ tháng trong năm 2016, tương đương 670 triệu đồng/ năm, cao hơn 20% so với kế hoạch đề ra (46,53 triệu đồng/ tháng). 

Screen Shot 2018-03-08 at 11.40.21 AM

 Thu nhập của lãnh đạo, nhân viên Sagri tăng đột biến trong năm 2016. Nguồn: Báo cáo chế độ lương, thưởng Sagri năm 2017

Năm 2017, thu nhập của lao động lẫn người quản lý tại Sagri đều giảm mạnh. Người lao động theo kế hoạch được nhận 9,404 triệu đồng/ tháng. Con số này đối với 7 người quản lý doanh nghiệp là 25 triệu đồng/ tháng. Quỹ tiền lương đối với các lãnh đạo Sagri bị co hẹp đáng kể từ 5,357 tỷ đồng về 1,878 tỷ đồng.

6 tháng đầu năm 2017, Sagri đạt doanh thu hợp nhất 1.451 tỷ đồng, tăng nhẹ 8,2% so với cùng kỳ 2016. Tuy nhiên giá vốn bán hàng tăng với biên độ cao hơn khiến tổng công ty này chỉ lãi sau thuế 52,4 tỷ đồng, giảm 55% so với nửa đầu năm 2016. 

Được biết, trong năm 2017, Sagri đạt mục tiêu doanh thu 1.721 tỷ đồng, lợi nhuận 162 tỷ đồng, tổng số thuế và nộp ngân sách nhà nước 188 tỷ đồng.

Tổng tài sản của Sagri tại ngày 30/6/2017 là 3.836 tỷ đồng, vốn đầu tư chủ sở hữu 1.643 tỷ đồng. 

Sở hữu hàng nghìn ha đất dự án 

Với đặc thù sản xuất nông nghiệp, và là doanh nghiệp lớn trực thuộc UBND TP. HCM, Sagri hiện sở hữu nhiều dự án sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. 

Có thể kể đến Dự án Khu công nghiệp tại xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh diện tích 768 ha, tổng mức đầu tư 3.350 tỷ đồng; Dự án KCN Lê Minh Xuân 2, huyện Bình Chánh quy mô 319,77  ha, tổng mức đầu tư 1.019,6 tỷ đồng; Dự án Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại xã Phú  Mỹ Hưng, Củ Chi quy mô 650 ha, tổng vốn đầu tư 820 tỷ  đồng; Dự án Khu sản xuất nông nghiệp công nghệ cao tại xã Phạm Văn Cội, Củ Chi rộng 470 ha, tổng mức đầu tư 750 tỷ đồng.

Ngoài ra, còn nhiều dự án lò mổ, nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến nông sản khác.

Tại buổi giám sát về công tác quản lý, sử dụng và xử lý nhà - đất thuộc sở hữu nhà nước của Ban Kinh tế - Ngân sách HĐND TPHCM ngày 6/6/2017, ông Lê Tấn Hùng cho biết, tuy trên sổ sách Sagri quản lý diện tích lớn trên 6.600ha nhưng thực chất chỉ còn 550ha, hiện nay trồng mía, bưởi da xanh, ổi…Hầu hết cũng manh mún vì đất khoán theo chính sách trước đây. 

Sagri kiến nghị thanh tra toàn bộ đất đai, khoán đất… bởi đây là vấn đề rất phức tạp, có hơn 90% hộ khoán đất là sử dụng không đúng mục đích, cũng không phải là dân địa phương.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25030.00 25048.00 25348.00
EUR 26214.00 26319.00 27471.00
GBP 30655.00 30840.00 31767.00
HKD 3156.00 3169.00 3269.00
CHF 27071.00 27180.00 27992.00
JPY 159.45 160.09 167.24
AUD 15862.00 15926.00 16400.00
SGD 18109.00 18182.00 18699.00
THB 667.00 670.00 696.00
CAD 17920.00 17992.00 18500.00
NZD   14570.00 15049.00
KRW   17.26 18.81
DKK   3520.00 3646.00
SEK   2265.00 2349.00
NOK   2255.00 2341.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ