Gỡ nút thắt hạ tầng, thúc đẩy phát triển giao thông đường thủy

Nhàđầutư
Ngày 17/4, Tọa đàm trực tuyến "Gỡ nút thắt hạ tầng, thúc đẩy phát triển giao thông đường thủy” đã được tổ chức ở Hà Nội, tại đây nhiều chuyên gia đã đưa ra các giải pháp để giải quyết khó khăn lĩnh vực này.
PHAN CHÍNH
17, Tháng 04, 2018 | 10:47

Nhàđầutư
Ngày 17/4, Tọa đàm trực tuyến "Gỡ nút thắt hạ tầng, thúc đẩy phát triển giao thông đường thủy” đã được tổ chức ở Hà Nội, tại đây nhiều chuyên gia đã đưa ra các giải pháp để giải quyết khó khăn lĩnh vực này.

thu truong nhat - nhadautu.vn

Ông Nguyễn Nhật Thứ trưởng Bộ GTVT 

Tại buổi tọa đàm, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật cho rằng, hiện có 5 phương thức giao thông vận tải nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Trong điều kiện tự nhiên nhiều sông ngòi, có điều kiện phát triển đường thủy, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long có đường bờ biển dài, tuy nhiên còn nhiều vấn đề trong phát triển cơ sở hạ tầng.

Ông Nhật nói, rất mong nhận được nhiều ý kiến, câu hỏi cũng như thắc mắc của độc giả trong lĩnh vực đường sắt, hàng hải để các chuyên gia xem xét, giải đáp..., để đảm bảo phục vụ nhân dân tốt hơn, giảm chi phí vận tải.

Thứ trưởng Nhật nhấn mạnh, đây sẽ là diễn đàn mở để các chuyên gia, đại diện các nhà đầu tư, doanh nghiệp, các tổ chức và người dân đang tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh bàn luận, đề xuất tìm hướng xây dựng giải pháp đồng bộ cho giao thông đường thuỷ.

hung - ngan hang nha nuoc

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng nhà nước 

Ông Nguyễn Quốc Hùng - Vụ trưởng Vụ tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng nhà nước cho rằng, với 3.500 km kênh rạch, chiều dài khoảng 80.000 km đường sông và 3.300 km đường biển và 124 cửa sông ra biển, Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới về giao thông đường thuỷ. Khu vực đồng bằng sông Cửư Long thì luồng kênh rạch nhiều nhất thế giới. Việt Nam có lợi thế về giao thông đường thuỷ và được thiên nhiên ưu đãi.

Theo ông Hùng, tính đến ngày 31.12.2017, tổng dự nợ cho vay đường thuỷ chỉ đạt 0,4% tổng dư nợ nền kinh tế. Trong đó 84,4% cho vay trung và dài hạn. Như vậy đầu tư vốn cho nhu cầu đầu tư vốn cho vay đường thuỷ là trung và dài hạn.

Vị đại diện của Ngân hàng nhà nước cho biết, hệ thống cảng, sự kết nối và kho cảng bến bãi, chi phí đổ vào quá lớn. Trong khi đó, cơ chế tín dụng cho các doanh nghiệp vốn ngân hàng đều vay theo lãi suất bình thường, không có chính sách nào ưu đãi. Bộ GTVT đã có các quyết định liên quan đến quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết, phê duyệt quy hoạch từ đây đến 2020 tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 47/2015/QĐ-TTg về cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển giao thông vận tải đường thủy nội địa. 

Liem

Ông Trần Đỗ Liêm, Chủ tịch Hội Vận tải Thủy nội địa Việt Nam 

Trong khi đó, ông Trần Đỗ Liêm, Chủ tịch Hội Vận tải Thủy nội địa Việt Nam cho rằng, tất cả các công trình xây dựng hạ tầng như giao thông đường bộ, cầu, cảng, khu đô thị mới, sân bay, khu công nghiệp, khu dân cư thoát lũ khu tái định cư, các công trình thủy lợi, nhà máy tại đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng “tươi sáng” bởi có vận tải thủy nội địa.

Tuy nhiên, theo ông Liêm, hiện nay, toàn bộ phương tiện thủy nội địa đều do người dân tự đầu tư bằng vốn tự có hoặc vay của ngân hàng thương mại.

“40 năm qua, Nhà nước dù đã có văn bản hỗ trợ phát tiển vận tải thủy nhưng chưa đươc triển khai ở địa phương, chưa có gói tài chính ưu đãi nào giành riêng cho việc phát triển phương tiện và nguồn nhân lực vận tải thủy nội địa”, ông Liêm nói, đồng thời chia sẻ, hiện người làm nghề vận tải đang nộp đủ các sắc thuế và lệ phí, từ đăng ký kinh doanh, đăng ký phương tiện, vùng nước, bến cảng, cảng phí, rồi phí đường dài.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25175.00 25177.00 25477.00
EUR 26671.00 26778.00 27961.00
GBP 31007.00 31194.00 32152.00
HKD 3181.00 3194.00 3297.00
CHF 27267.00 27377.00 28214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16215.00 16280.00 16773.00
SGD 18322.00 18396.00 18933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18215.00 18288.00 18819.00
NZD   14847.00 15342.00
KRW   17.67 19.30
DKK   3582.00 3713.00
SEK   2293.00 2380.00
NOK   2270.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ