Đề xuất không tăng lương tối thiểu vùng năm 2021

Bộ LĐ-TB&XH đang lấy ý kiến dự thảo về lương tối thiểu vùng năm 2021. Theo đó, bộ này cho rằng, do lạm phát thực tế năm 2020 tăng thấp hơn dự kiến nên sẽ không tăng lương tối thiểu vùng trong năm 2021 và đề xuất 1 năm chỉ xem xét đề xuất điều chỉnh lương 1 lần vào ngày 1/1.
ĐÌNH VŨ
04, Tháng 03, 2021 | 12:25

Bộ LĐ-TB&XH đang lấy ý kiến dự thảo về lương tối thiểu vùng năm 2021. Theo đó, bộ này cho rằng, do lạm phát thực tế năm 2020 tăng thấp hơn dự kiến nên sẽ không tăng lương tối thiểu vùng trong năm 2021 và đề xuất 1 năm chỉ xem xét đề xuất điều chỉnh lương 1 lần vào ngày 1/1.

Trong dự thảo vừa gửi báo cáo Chính phủ về mức lương tối thiểu vùng năm 2021 mới đây, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) cho biết, trong thực tế, CPI của năm 2020 chỉ tăng 3,23% nên lương tối thiểu vùng sau khi cập nhật lại đã đảm bảo cao hơn 2,28% so với mức sống tối thiểu.

Theo đó, bộ này cho rằng việc tiếp tục giữ nguyên mức lương tối thiểu này để áp dụng cho năm 2021 vẫn đáp ứng được mức sống tối thiểu của người lao động.

Trường hợp CPI của cả năm 2021 tăng cao hơn 2,28% thì về nguyên tắc tính toán phần lương tối thiểu thấp hơn mức sống tối thiểu vùng sẽ được xem xét để đưa vào điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng áp dụng từ năm 2022.

Bộ LĐ-TB&XH cũng cho rằng, đề xuất việc không điều chỉnh lương tối thiểu năm 2021 là phù hợp, tạo điều kiện để doanh nghiệp phục hồi, duy trì việc làm cho người lao động và tái tham gia thị trường lao động trong bối cảnh dịch COVID-19 vẫn diễn biến phức tạp.

FB_IMG_1614836166915

Bộ LĐ-TB&XH đề xuất không tăng lương tối thiểu vùng năm 2021. Ảnh: Minh Phich.

Cùng với đó, nếu tình hình kinh tế xã hội và các yếu tố điều chỉnh tiền lương tối thiểu vùng thuận lợi thì có thể xem xét điều chỉnh tiền lương vào ngày 1/1/2022 mà không cần phải xem xét tiếp tục lùi vào thời điểm 1/7/2022 như kiến nghị của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.

Năm 2020, cả nước có 101.700 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 13,9% so với năm 2019. Trung bình mỗi tháng có gần 8.500 doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường.

Cả nước có hơn 100.000 doanh nghiệp tạm dừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ thủ tục giải thể và hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 13,9% so với năm 2019. Lực lượng lao động là 54,6 triệu người, giảm 1,2 triệu người so với năm 2019. Bên cạnh đó, thu nhập bình quân của lao động làm công hưởng lương là 6,62 triệu đồng/người/tháng, giảm 75.000 đồng so với năm 2019...

Bộ LĐ-TB&XH cho rằng, thực tế năm 2020 cho thấy, lương tối thiểu vùng năm 2020 tăng nhưng thu nhập của người lao động vẫn giảm, do lương tối thiểu chỉ để đảm bảo mức sàn thấp nhất cho người lao động, tăng lương tối thiểu không dẫn đến việc tăng lương, thu nhập chung của người lao động.

Từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã 18 lần điều chỉnh lương tối thiểu nói chung, trong đó 3/18 lần thay đổi thời gian điều chỉnh sang tháng 10 là vào các năm 2005, 2006, 2011. Còn lại 15/18 lần đều điều chỉnh vào ngày 1/1 hàng năm.

Bên cạnh đó, đa số quốc gia lựa chọn thời điểm điều chỉnh lương tối thiểu trùng với thời điểm bắt đầu năm tài chính để tạo thuận tiện cho việc lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Năm tài chính của Việt Nam bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc vào 31/12. Vì vậy, việc Việt Nam lựa chọn thực hiện điều chỉnh lương tối thiểu vào thời điểm 1/1 như hiện nay là phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bộ LĐ-TB&XH đề nghị Chính phủ tiếp tục duy trì thời điểm điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng từ ngày 1/1. Nếu có yếu tố biến động bất thường, Hội đồng Tiền lương Quốc gia sẽ nghiên cứu, đề xuất, báo cáo Chính phủ xem xét, quyết định.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 24550.00 24560.00 24880.00
EUR 26323.00 26429.00 27594.00
GBP 30788.00 30974.00 31925.00
HKD 3099.00 3111.00 3212.00
CHF 27288.00 27398.00 28260.00
JPY 161.63 162.28 169.90
AUD 15895.00 15959.00 16446.00
SGD 18115.00 18188.00 18730.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 17917.00 17989.00 18522.00
NZD   14768.00 15259.00
KRW   17.70 19.32
DKK   3538.00 3670.00
SEK   2323.00 2415.00
NOK   2274.00 2365.00
       

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ