Cục trưởng Trồng trọt: Giá gạo tăng cao, không tranh thủ xuất khẩu sẽ bị lỡ cơ hội

Nhàđầutư
Theo Cục trưởng Trồng trọt Nguyễn Như Cường (Bộ NN&PTNT), đây là thời điểm để Việt Nam xuất khẩu gạo, việc đẩy mạnh xuất khẩu tại thời điểm này sẽ không ảnh hưởng đến an ninh lương thực, nếu không tranh thủ sẽ bị lỡ cơ hội.
QUÂN TRẦN
01, Tháng 08, 2023 | 17:53

Nhàđầutư
Theo Cục trưởng Trồng trọt Nguyễn Như Cường (Bộ NN&PTNT), đây là thời điểm để Việt Nam xuất khẩu gạo, việc đẩy mạnh xuất khẩu tại thời điểm này sẽ không ảnh hưởng đến an ninh lương thực, nếu không tranh thủ sẽ bị lỡ cơ hội.

Tại cuộc họp báo thường ký Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) chiều 1/8, ông Nguyễn Như Cường, Cục trưởng Trồng trọt cho biết Bộ này đã thông tin về tình hình sản xuất lúa, gạo nhằm "nắm bắt thời cơ", đẩy mạnh xuất khẩu gạo trong bối cảnh giá gạo liên tục tăng cao trong thời gian gần đây. 

"Thời gian vừa qua, Cục Trồng trọt phối hợp với một số đơn vụ của Bộ NN&PTNT đi kiểm tra tình hình sản xuất lúa tại khu vực ĐBSH, Bắc Trung Bộ và ĐBSCL, đến thời điểm này có thể khẳng định sinh trưởng và phát triển của cây lúa đang rất tốt. Mục tiêu trên 43 triệu tấn năm 2023 có thể đạt được", ông Cường nói.

Cục trưởng cho biết, với các giải pháp canh tác lúa như hiện nay thì 3 tháng sẽ cho thu hoạch, bởi vậy vụ đông xuân năm nay sẽ cho sản lượng tốt.

"Để đạt được mục tiêu trên 43 triệu tấn lúa, Cục Trồng trọt đang phối hợp với các cơ quan chuyên môn của Bộ NN&PTNT và các địa phương có kế hoạch gieo cấy, giải pháp kỹ thuật. Dự kiến năm nay Việt Nam sẽ xuất khẩu khoảng 7,8 triệu tấn gạo", Cục trưởng thông tin.

xuat-khau-gao-viet-nam

Kim ngạch xuất khẩu gạo đạt 2,58 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm. Ảnh: VOV

Trả lời Nhadautu.vn, Cục trưởng Nguyễn Như Cường cho hay, Việt Nam và các nước sản xuất lúa gạo trong khu vực đang phải đối mặt với hiện tượng El Nino. Hiện tượng này sẽ bắt đầu tác động mạnh từ khoảng tháng 10, đặc biệt từ vụ Đông Xuân 2023-2024 sẽ có những tác động mạnh mẽ đến sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL. 

Tuy nhiên, theo Cục trưởng, hiện tượng này đã từng xảy ra vào năm 2015-2016, gây thiệt hại 30-50% diện tích lúa. Do đó, Cục xác định đây sẽ là nền xây dựng phương án ứng phó với El Nino.

"So với các nước trồng lúa trên thế giới thì Việt Nam ít sẽ bị ảnh hưởng bởi El Nino do bố trí mùa vụ phù hợp, nhưng chúng ta cũng không thể chủ quan", ông Cường nhấn mạnh.

Theo Cục trưởng, hiện nay Cục đã bố trí nâng diện tích thu đông tại ĐBSCL từ 650.000 ha lên 700.000 ha. Bên cạnh đó, hôm qua Bộ cũng đã tham mưu Chính phủ tăng cường xuất khẩu gạo trong bối cảnh hiện nay, từ đó tập trung vào giải pháp kỹ thuật, hành chính, pháp lý để tháo gỡ vướng mắc, tăng lượng xuất khẩu.

Theo số liệu của Bộ NN&PTNT, kim ngạch xuất khẩu 7 tháng năm 2023 ước đạt 29,13 tỷ USD, giảm 9,1%. Trong đó, giá trị xuất khẩu một số nhóm giảm như: Giá trị xuất khẩu nhóm thuỷ sản đạt 4,95 tỷ USD, giảm 25,4%; lâm sản 7,79 tỷ USD, giảm 25,5%; đầu vào sản xuất đạt 1,13 tỷ USD, giảm 25,1%.

Những nhóm có giá trị xuất khẩu tăng gồm: Nhóm nông sản đạt gần 14,99 tỷ USD, tăng 13,2 % (trong đó giá trị xuất khẩu nhóm hàng rau quả 3,23 tỷ USD, tăng 68,1%; gạo 2,58 tỷ USD, tăng 29,6%; hạt điều 1,95 tỷ USD, tăng 9,8%; cà phê 2,76 tỷ USD, tăng 6%); sản phẩm chăn nuôi 276 triệu USD, tăng 27,4%. Riêng giá gạo 534 USD/tấn, tăng 9,2%; cà phê 2.540 USD/tấn, tăng 12,8%.

Về thị trường xuất khẩu, trong 7 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tới các thị trường thuộc khu vực châu Á dẫn đầu với 14,06 tỷ USD, tăng 2,3%; châu Mỹ đạt 6,52 tỷ USD, giảm 29,2%; châu Âu đạt 3,29 tỷ USD, giảm 13,3%; châu Phi đạt 573 triệu USD, tăng 14,1%; châu Đại Dương đạt 408 triệu USD, giảm 25,6%.

Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu nông, lâm, thủy sản lớn nhất; giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng 21,9%, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước; Hoa Kỳ chiếm 20,4%, giảm 29,3% và Nhật Bản chiếm 7,6%, giảm 6,9%.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ