CPI tháng 8 tăng 0,07%, thấp nhất trong 5 năm qua

Nhàđầutư
Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 tăng 0,07% so với tháng trước và giảm 0,12% so với tháng 12/2019 mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020.
HẢI ĐĂNG
29, Tháng 08, 2020 | 16:41

Nhàđầutư
Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 tăng 0,07% so với tháng trước và giảm 0,12% so với tháng 12/2019 mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020.

CPI

CPI tháng 8 tăng 0,07%, thấp nhất trong 5 năm qua. Ảnh minh họa

Theo báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2020 của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 tăng 0,07% so với tháng trước và giảm 0,12% so với tháng 12/2019 mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020.

Tính chung CPI bình quân 8 tháng năm 2020 tăng 3,96% so với cùng kỳ năm trước.

Lý giải nguyên nhân khiến CPI tháng 8 tăng so với tháng trước, Tổng cục Thống kê cho biết, chủ yếu do ảnh hưởng của cơn bão số 2 và mưa trên diện rộng làm giá rau tăng; giá gạo trong nước tăng do giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thuận lợi đạt ở mức cao trong nhiều năm trở lại đây; giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh tăng ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 

Theo số liệu thống kê, trong mức tăng 0,07% của CPI tháng 8 so với tháng trước có 7/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, trong đó: Nhóm giáo dục tăng nhiều nhất với 0,18% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện tăng học phí năm học mới 2020-2021 và giá các mặt hàng sách vở, đồ dùng học tập tăng do nhu cầu mua sắm để chuẩn bị cho năm học mới (tác động làm CPI chung tăng 0,01%).

Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,11%, trong đó: lương thực tăng 0,6%; thực phẩm tăng 0,08%.

Nhóm giao thông tăng 0,1% do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh tăng giá xăng, dầu vào thời điểm 28/7/2020 và điều chỉnh giảm giá xăng, dầu vào thời điểm 12/8/2020 làm chỉ số giá xăng, dầu tăng 0,41%.

Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng cùng mức tăng 0,1%, chủ yếu do giá điện, nước sinh hoạt tăng lần lượt là 0,39% và 0,48% và do giá dầu hỏa tăng 1,93%, giá gas tăng 0,55%.

Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,05%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; nhóm hàng hóa, dịch vụ khác tăng 0,2%.
Ngược lại, các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm gồm nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,2% do nhu cầu du lịch của người dân giảm mạnh khi dịch COVID-19 bùng phát trở lại; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,05%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,03%. Riêng nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình không thay đổi.

Tổng cục Thống kê cho hay, lạm phát cơ bản tháng 8/2020 giảm 0,01% so với tháng trước và tăng 2,16% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân 8 tháng năm 2020 tăng 2,66% so với bình quân cùng kỳ năm 2019.

Giá vàng tháng 8/2020 tăng 9,86% so với tháng trước

Giá vàng trong nước tăng theo giá vàng thế giới do dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ các nền kinh tế, bên cạnh đó, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung cũng ngày càng gay gắt giúp vàng trở thành kênh đầu tư an toàn.

Bình quân giá vàng thế giới đến ngày 24/8/2020 tăng 6,14% so với tháng 7/2020. Chỉ số giá vàng tháng 8/2020 tăng 9,86% so với tháng trước; tăng 32,81% so với tháng 12/2019 và tăng 35,02% so với cùng kỳ năm trước.

Theo nhận định của Tổng cục Thống kê, đồng đô la Mỹ trên thị trường quốc tế tiếp tục suy yếu trong bối cảnh lạm phát tháng 7/2020 của Mỹ tăng và Quốc hội Mỹ chưa đạt được thỏa thuận liên quan đến gói cứu trợ mới để giúp người dân, doanh nghiệp vượt qua ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và duy trì đà phục hồi kinh tế.

 Trong nước, lượng dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dồi dào đáp ứng nhu cầu về ngoại tệ của các doanh nghiệp nhập khẩu. 

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 8/2020 giảm 0,07% so với tháng trước; tăng 0,16% so với tháng 12/2019 và giảm 0,23% so với cùng kỳ năm trước.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ