Coca-Cola lãi ròng 2,25 tỷ USD trong quý I/2021

Nhàđầutư
Coca-Cola đã ghi nhận sự sụt giảm thu nhập của quý đầu tiên trong bối cảnh doanh số bán hàng tiếp tục suy yếu, nhưng cho biết các chiến dịch tiêm chủng vaccine COVID-19 vẫn đang thúc đẩy doanh số ở nhiều thị trường.
TRẦN VÕ
22, Tháng 04, 2021 | 07:00

Nhàđầutư
Coca-Cola đã ghi nhận sự sụt giảm thu nhập của quý đầu tiên trong bối cảnh doanh số bán hàng tiếp tục suy yếu, nhưng cho biết các chiến dịch tiêm chủng vaccine COVID-19 vẫn đang thúc đẩy doanh số ở nhiều thị trường.

coca-cola-181220

Coca-Cola lãi ròng 2,25 tỷ USD trong quý I/2021.  Ảnh: Reuters.

Coca-Cola đã báo cáo thu nhập ròng trong quý I/2021 đạt 2,25 tỷ USD, tương đương 52 cent/cổ phiếu, giảm mạnh so với mức 2,78 tỷ USD, tương đương 64 cent/cổ phiếu, một năm trước đó.

Theo đó, doanh thu thuần của Coca-Cola tăng 5% lên 9,02 tỷ USD, đánh bại mức kỳ vọng 8,6 tỷ USD của các nhà phân tích Phố Wall. Doanh số hữu cơ (Organic revenues) của công ty tăng 6% bất chấp dịch COVID-19. Coca-Cola cho biết nhu cầu đã dần được cải thiện, do các thị trường lớn như Trung Quốc đang hồi phục nhanh chóng hậu COVID-19.

Giám đốc điều hành James Quincey cho biết: "Chúng tôi đang ghi nhận được những chuyển biến tích cực, đặc biệt là ở những thị trường sớm triển khai các chiến dịch tiêm chủng vaccine và mở cửa lại nền kinh tế".

Phân khúc nước ngọt có ga của Coca-Cola, bao gồm cả soda, đã chứng kiến ​​mức tăng trưởng sản lượng lên tới 4% trong quý I/2021. Trong khi hoạt động kinh doanh ở Bắc Mỹ vẫn đang chịu nhiều áp lực, thì sự tăng trưởng ở Ấn Độ, Trung Quốc và Mỹ Latinh đã bù đắp cho những sụt giảm đó.

Nhu cầu gia tăng ở Trung Quốc và Ấn Độ cũng giúp phân khúc dinh dưỡng, nước trái cây, sữa và đồ uống có nguồn gốc từ thực vật, tăng trưởng 3% về sản lượng.

Mảng nước uống, thể thao, cà phê và trà của Coca-Cola bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với sản lượng giảm 11%. Việc kinh doanh cà phê của công ty cũng giảm 21% do ảnh hưởng của dịch bệnh đối với các quán cà phê Costa.

Trong khi đó, các sản phẩm như Dasani và Smartwater đã ghi nhận sản lượng giảm tới 12% do ngày càng ít người tiêu dùng trên toàn cầu mua chai nước sử dụng một lần. Nhu cầu đối với các sản phẩm trà của Coca-Cola giảm 6%, trong khi đồ uống thể thao như Powerade chỉ giảm 1%.

Giám đốc tài chính John Murphy nói với các nhà phân tích rằng sự không chắc chắn vẫn đang còn hiện hữu. Ấn Độ và một số khu vực của châu Âu đang ghi nhận sự gia tăng đột biến trong các trường hợp nhiễm mới COVID-19 mới, trong khi châu Mỹ Latinh và châu Phi vẫn đang 'mòn mỏi' chờ đợi các lô vaccine mới.

Mới đây, Coca-Cola tuyên bố sẽ tăng giá các mặt hàng đồ uống để ứng phó tác động do giá cả hàng hoá tăng lên. Dù kế hoạch tăng giá sẽ giúp lợi nhuận của các công ty này tăng đáng kể, nhưng họ sẽ phải đối mặt với việc mất đi lượng lớn người tiêu dùng đang ngày càng thắt chặt chi tiêu thời COVID-19.

Giám đốc điều hành James Quincey  cho biết: "Chúng tôi vẫn cầm cự được trong năm 2021, nhưng đến năm 2022, áp lực sẽ gia tăng và lúc đó sẽ phải tăng giá. Chúng tôi dự định điều chỉnh tăng giá ở mức phù hợp, xem xét lại cách kích cỡ đóng gói sản phẩm và đưa ra mức giá tối ưu nhất".

Trong bối cảnh dịch COVID-19, Coca-Cola đã chuyển hướng sản xuất vào đóng gói các sản phẩm kích cỡ lớn hơn để khuyến khích khách hàng dành nhiều thời gian ở nhà hay thường xuyên mua sắm tại các cửa hàng.

Trước khi đại dịch xảy ra, Coca-Cola và đối thủ PepsiCo đã đẩy mạnh sản xuất, đóng gói các loại lon và chai nhỏ. Điều này có lợi hơn cho họ nhưng lại khiến giá bán đến tay người tiêu dùng cao hơn.

Giám đốc điều hành James Quincey vẫn chưa tiết lộ sản phẩm nào của Coca-Cola sẽ tăng giá. Lần gần nhất mà hãng này thông báo tăng giá là vào năm 2018 do tác động của việc điều chỉnh thuế dưới thời cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25170.00 25172.00 25472.00
EUR 26456.00 26562.00 27742.00
GBP 30871.00 31057.00 32013.00
HKD 3176.00 3189.00 3292.00
CHF 27361.00 27471.00 28313.00
JPY 160.49 161.13 168.45
AUD 15933.00 15997.00 16486.00
SGD 18272.00 18345.00 18880.00
THB 671.00 674.00 701.00
CAD 18092.00 18165.00 18691.00
NZD   14693.00 15186.00
KRW   17.52 19.13
DKK   3553.00 3682.00
SEK   2267.00 2353.00
NOK   2251.00 2338.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ