Cổ phiếu ngân hàng bùng nổ, VN-Index tăng gần 19 điểm

Nhàđầutư
Sự bùng nổ của các bluechips cũng như những nhóm cổ phiếu tỷ trọng vốn hóa lớn đã kéo ngược thị trường chốt phiên ở vùng điểm cao nhất hôm nay, sau phiên sáng giảm sâu vì làn sóng bán tháo ở các cổ phiếu tăng nóng.
TẢ PHÙ
12, Tháng 01, 2022 | 15:30

Nhàđầutư
Sự bùng nổ của các bluechips cũng như những nhóm cổ phiếu tỷ trọng vốn hóa lớn đã kéo ngược thị trường chốt phiên ở vùng điểm cao nhất hôm nay, sau phiên sáng giảm sâu vì làn sóng bán tháo ở các cổ phiếu tăng nóng.

NDT - CK bung no

Ảnh: Zing.

Sự kiện bỏ cọc đấu giá đất Thủ Thiêm của Tân Hoàng Minh Group, cùng với các diễn biến liên quan đến tỷ phú Trịnh Văn Quyết bán cổ phiếu FLC trái quy định đã ảnh hưởng tiêu cực đến các cổ phiếu bất động sản, cũng như sóng cổ phiếu đầu tư.

Chỉ số VNREAL đại diện 39 mã cổ phiếu bất động sản trên HOSE chốt phiên hôm nay đã giảm 0,35%. Mặt khác, việc cổ phiếu nhóm này chiếm ưu thế trong rổ Midcap và Smallcap cũng đẩy 2 chỉ số này giảm lần lượt 0,36% và 2,17%.

Cụ thể, hàng loạt cổ phiếu bất động sản “sốt” trong thời gia qua đều giảm sàn như DIG, CEO, HQC, DIG, QCG, SCR, NBB, CII, LDG, LGL, ITA, HAR.... Một số mã khác cũng giảm mạnh như DXS (-5,3%), PDR (-2,8%), DXG (-1,8%)...

FLC và các cổ phiếu liên hệ đều bị bán mạnh. Sau diễn biến phong tỏa tài khoản chứng khoán của Chủ tịch HĐQT Trịnh Văn Quyết, FLC giảm sàn “trắng bên mua” với dư bán sàn lên đến hơn 38,6 triệu cổ phiếu. Tương tự, ROS giảm sàn với hơn 73 triệu cổ dư bán sàn; KLF sàn với dư bán 19,6 triệu cổ; ART sàn với hơn 8,5 triệu cổ dư bán; HAI sàn với hơn 17,3 triệu cổ dư bán; AMD sàn với dư bán hơn 14  triệu cổ....

Hiệu ứng tiêu cực từ các nhóm cổ phiếu FLC và làn sóng bán tháo cổ phiếu bất động sản tăng nóng đã ảnh hưởng TTCK trong phiên sáng khi VN-Index có lúc giảm đến 16,58 điểm (-1,11%) xuống 1.475,73 điểm.

Diễn biến kém khả quan tiếp tục kéo dài trong nửa đầu phiên giao dịch chiều. Dù vậy, sự bùng nổ của các cổ phiếu trụ, đặc biệt ở nhóm ngân hàng đã nhanh chóng kéo ngược thị trường tăng điểm trở lại.

Nhóm VN30 chốt phiên tăng 2,02% lên 1.530,04 điểm (vượt mức tăng VN-Index phiên nay là 1,22%) với 20 mã tăng, 8 mã giảm. Trong đó, góp công lớn nhất là nhóm ngân hàng với BID, TPB, STB trần, HDB (+5,6%), MBB (+4,7%), TCB (+4%), VPB (+3,2%), ACB (+1,1%), VCB (+0,8%).

Nhiều cổ phiếu ngân hàng khác cũng tăng tốt như SHB (+5,5%), MSB (+5,3%), VIB (+5%), SSB (+5%).... Duy chỉ có NVB (-1,3%), PGB (-1,2%) giảm điểm, BAB đi ngang ở mức tham chiếu.

Nhóm chứng khoán cũng gây ấn tượng với CTS tăng trần đạt 44.900 đồng/CP. Một số cổ phiếu lớn khác tăng tốt như SSI (+5%), SHS (+4,7%), VND (+4,7%), MBS (+2,9%), VCI (+2,5%), HCM (+2,3%)...

Ngoài ra, phải kể đến các cổ phiếu thép với HPG (+2,4%), NKG (+2,3%), HSG (+1,7%), TVN (+0,6%)...; nhóm dầu khí với PVD, PSH trần, PVC (+6,3%), GAS (+4,5%), OIL (+4,4%)....

Nhóm bất động sản, như đã đề cập, giao dịch tiêu cực trong phiên hôm nay. Dù vậy vẫn còn một số cổ phiếu tăng khoẻ như TIP (+5,6%), KBC tăng trần lên 58.900 đồng/CP. 

Chốt phiên giao dịch 12/1, VN-Index tăng 1,22% đạt 1.510,51 điểm – mức cao nhất trong phiên hôm nay. Tuy thị trường tăng điểm tốt, nhưng lưu ý rằng các mã giảm điểm chiếm ưu thế với 267 mã (52 mã giảm sàn), trong khi đó chỉ có 203 mã tăng (11 mã trần). Tổng khối lượng giao dịch đạt 1.130,8 triệu đơn vị, tương đương GTGD gần 35.709 tỷ đồng.

Khối ngoại có phiên thứ 2 mua ròng liên tiếp trên HoSE với giá trị 423,71 tỷ đồng. Trong đó, tập trung mua các mã KBC (+135,7 tỷ đồng), DXG (+94,8 tỷ đồng), KDH (+90,3 tỷ đồng), VHM (+68,9 tỷ đồng)…

Trên thị trường phái sinh, các chỉ số đều tăng mạnh, trong đó VN30F2201 tăng 25,3 điểm lên 1.528,9 điểm, với basis -1,14 điểm.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25158.00 25458.00
EUR 26649.00 26756.00 27949.00
GBP 31017.00 31204.00 32174.00
HKD 3173.00 3186.00 3290.00
CHF 27229.00 27338.00 28186.00
JPY 158.99 159.63 166.91
AUD 16234.00 16299.00 16798.00
SGD 18295.00 18368.00 18912.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18214.00 18287.00 18828.00
NZD   14866.00 15367.00
KRW   17.65 19.29
DKK   3579.00 3712.00
SEK   2284.00 2372.00
NOK   2268.00 2357.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ