Có nhiều thay đổi lớn liên quan đến đầu tư tuyến cao tốc Bắc – Nam

Nhàđầutư
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Nhật về các vấn đề liên quan đến tìm vốn xây dựng 2.100km cao tốc Bắc - Nam vừa được Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt.
NHÂN HÀ
23, Tháng 02, 2018 | 10:35

Nhàđầutư
Đó là khẳng định của Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải Nguyễn Nhật về các vấn đề liên quan đến tìm vốn xây dựng 2.100km cao tốc Bắc - Nam vừa được Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt.

ong nhat

Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật. 

Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Nhật, sẽ có ít nhất 2 thay đổi lớn trong tờ trình Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi (Pre F/S) mới nhất liên quan đến tuyến cao tốc Bắc - Nam vừa được Chính phủ trình Quốc hội phê duyệt. Đầu tiên là tên dự án đã được thay đổi từ “Dự án đầu tư xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông” thành “Dự án đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020”.

Ông Nhật cho biết, ngoài việc phân biệt phạm vi nghiên cứu, đây có thể coi là sự phân kỳ đầu tư cho tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông, bắt đầu từ Lạng Sơn tới Cà Mau hiện có tới 1.291 km cần đầu tư mới và 81 km mở rộng từ 2 làn lên 4 làn xe.

“Thay đổi thứ hai là việc Chính phủ bổ sung vào dự án giai đoạn 2017 - 2020 công trình cầu Mỹ Thuận 2 dài khoảng 7 km; đồng thời điều chỉnh quy mô đầu tư đoạn Cam Lộ (Quảng Trị) - La Sơn (Thừa Thiên - Huế) từ 4 làn xe, chiều rộng nền đường 17 m xuống còn quy mô 2 làn xe, chiều rộng nền đường 12 m; chưa mở rộng đoạn La Sơn (Thừa Thiên - Huế) - Túy Loan (Đà Nẵng)”, Thứ trưởng nói.

Ngoài ra, Thứ trưởng Nhật còn cho biết, trên đoạn tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông từ TP.HCM tới Cần Thơ, hiện đoạn cao tốc từ TP.HCM - Trung Lương đã hoàn thành và đang khai thác từ năm 2010; đoạn cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận và Mỹ Thuận - Cần Thơ đang triển khai thi công theo hình thức PPP, dự kiến hoàn thành trong năm 2019. Nên việc sớm đầu tư xây dựng cầu Mỹ Thuận 2 là rất cần thiết, giúp nối thông tuyến cao tốc từ TP.HCM đến Cần Thơ.

Vị này thông tin thêm, có 2 phân đoạn cao tốc Bắc - Nam khác cũng được kiến nghị đầu tư theo hình thức đầu tư công là Cao Bồ (Nam Định) - Mai Sơn (Ninh Bình); Cam Lộ (Quảng Trị) - La Sơn (Thừa Thiên - Huế). Đối với đoạn Cao Bồ - Mai Sơn, đang thực hiện đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước với quy mô 2 làn xe, để hoàn chỉnh thành quy mô 4 làn xe chỉ cần bổ sung vốn nhà nước khoảng 1.612 tỷ đồng, nên việc đầu tư theo hình thức PPP là không phù hợp.

“Còn với đoạn Cam Lộ (Quảng Trị) - La Sơn (Thừa Thiên - Huế), theo Nghị quyết số 66/2013/QH13 của Quốc hội về chủ trương đầu tư xây dựng đường Hồ Chí Minh cần đầu tư giai đoạn 2014 - 2017 theo hình thức BT. Theo số liệu dự báo nhu cầu vận tải, đoạn này có lưu lượng thấp hơn các đoạn ưu tiên giai đoạn 2017 - 2020, nên khả năng thu hút nhà đầu tư thực hiện PPP là rất khó khăn”, ông Nhật nói.

Cũng theo Thứ trưởng Nguyễn Nhật, hiện nay Quốc lộ 1 đã được mở rộng nhưng các phương tiện lưu thông chỉ với tốc độ 40-50 km/h. Điều này dẫn đến lãng phí thời gian, vật chất của các doanh nghiệp. Ngoài ra, Quốc lộ 1 đang cho phép lưu thông các loại hình giao thông hỗn hợp, vì thế thường xuyên gây nguy cơ mất an toàn giao thông. 

Bộ GTVT đã được Quốc hội phê duyệt từ nay đến 2021 phấn đấu hoàn thành 2.000-2.500 km cao tốc, hiện Bộ Giao thông Vận tải đã hoàn thành 750 km cao tốc. Nhưng trong quy hoạch về tương lai dài hạn, cần tới hơn 6.100 km đường cao tốc.

Trong giai đoạn 2016-2020, Chính phủ phân cho Bộ GTVT 75.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ. Trong đó, 5.000 tỷ đồng đền bù giải phóng mặt bằng sân bay Long Thành. 70.000 tỷ đồng còn lại, theo Nghị quyết 26 của Quốc hội dành cho các dự án quan trọng của quốc gia. 

Sau khi xem xét và nghiên cứu, Bộ Giao thông Vận tải kiến nghị dùng 55.000 tỷ đồng xây dựng cao tốc Bắc - Nam. 15.000 tỷ đồng còn lại vào các dự án trọng điểm. Hiện Bộ có danh sách 21 dự án quan trọng cần nguồn kinh phí khoảng 27.000 tỷ đồng.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25175.00 25177.00 25477.00
EUR 26671.00 26778.00 27961.00
GBP 31007.00 31194.00 32152.00
HKD 3181.00 3194.00 3297.00
CHF 27267.00 27377.00 28214.00
JPY 159.70 160.34 167.58
AUD 16215.00 16280.00 16773.00
SGD 18322.00 18396.00 18933.00
THB 667.00 670.00 697.00
CAD 18215.00 18288.00 18819.00
NZD   14847.00 15342.00
KRW   17.67 19.30
DKK   3582.00 3713.00
SEK   2293.00 2380.00
NOK   2270.00 2358.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ