Chỉ số Dow Jones giảm 2.000 điểm trong ngày tồi tệ nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã giảm hơn 2.000 điểm vào thứ Hai, ngày tồi tệ nhất kể từ năm 2008, trước những lo ngại về sự lây lan của dịch COVID-19 và cuộc chiến giá dầu khiến các nhà đầu tư phải 'đau đầu'.
THANH THẮNG
10, Tháng 03, 2020 | 09:51

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã giảm hơn 2.000 điểm vào thứ Hai, ngày tồi tệ nhất kể từ năm 2008, trước những lo ngại về sự lây lan của dịch COVID-19 và cuộc chiến giá dầu khiến các nhà đầu tư phải 'đau đầu'.

dow-jones-down

Thị trường chứng khoán Mỹ đang phải chịu quãng thời gian tồi tệ nhất kể từ năm 2008  Ảnh: CNBC

Chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones đã giảm 2.013,7 điểm - 7,79% - khi Boeing, Apple, Goldman Sachs và Caterpillar cắt giảm chỉ số ít nhất 100 điểm. Chỉ số Dow Jones kết thúc ngày ở mức 23.851,02, ngày tồi tệ nhất kể từ ngày 15/10 năm 2008 (chỉ số đã giảm 7,87% vào thời điểm đó).

Tương tự, chỉ số S&P 500 cũng giảm 7,6% xuống còn 2.746,56 khi các nhà đầu tư 'tháo chạy' khỏi thị trường tài chính và cổ phiếu năng lượng. Những cái tên nổi bật về năng lượng trong S&P 500, bao gồm Exxon Mobil, Hess và Marathon Oil, kết thúc ngày với mức giảm hơn 20%. Ngoài ra, cổ phiếu tài chính cũng kết thúc với mức giảm hơn 10%.

Trong khi đó, Nasdaq Composite đã giảm 7,29% để kết thúc ngày ở mức 7.950,68.

Việc bán tháo số lượng lớn đã khiến giao dịch bị tạm dừng trong 15 phút cho đến khi mở lại vào lúc 9h49 sáng. Sự sụt giảm mạnh vào ngày thứ Hai cũng ghi nhận việc chỉ số S&P 500 dao động hơn 2,5% trong bốn ngày liên tiếp.

Các nhà đầu tư tiếp tục tìm kiếm các tài sản an toàn hơn trước những lo ngại về việc COVID-19 sẽ phá vỡ chuỗi cung ứng toàn cầu và đẩy nền kinh tế vào suy thoái. Lần đầu tiên, lợi tức trái phiếu kho bạc 10 năm giảm xuống dưới 0,5%, trong khi lợi tức 30 năm mất đi 1%.

Phần lớn sự lo lắng của vào ngày thứ Hai đã đến sau khi Ả Rập Xê Út đã chính thức giảm giá bán dầu thô cho tháng Tư trong một bước ngoặt bất ngờ từ những nỗ lực trước đây để hỗ trợ thị trường dầu mỏ. Động thái này được đưa ra sau khi các cuộc đàm phán của OPEC sụp đổ vào ngày thứ Sáu.

"Giá dầu thô đã trở thành một vấn đề lớn hơn đối với các thị trường so với COVID-19. Chỉ số S&P 500 gần như không thể trở lại nếu giá dầu Brent tiếp tục giảm mạnh", ông Adam Crisafulli, người sáng lập Vital Knowledge, cho biết hôm Chủ nhật.

Giá dầu thô Brent đã giảm mạnh 24% xuống 34,44 USD/thùng sau khi giảm 30% trước đó. Ngoài ra, giá dầu WTI của Mỹ cũng giảm 24% xuống còn 31,13 USD/thùng.

Cổ phiếu ngành ngân hàng, dưới áp lực từ việc lãi suất giảm, đã 'chao đảo' một lần nữa trước những lo ngại về lợi nhuận và việc sự cố dầu mỏ có thể gây ra sự vỡ nợ cho các công ty năng lượng. Ngay lập tức, cổ phiếu của JPMorgan, Citigroup và Bank of America đều giảm hơn 13%.

Tổng thống Donald Trump đổ lỗi cho các phương tiện truyền thông và cuộc chiến giá dầu cho sự sụp đổ của thị trường chứng khoán vào thứ Hai. Ông đã thể hiện quan điểm của mình trong một loạt các đoạn tweet với nội dung như "giá xăng thấp hơn sẽ tốt cho người tiêu dùng".

Tính đến thứ Hai, số ca nhiễm COVID-19 trên toàn cầu đã tăng lên hơn 111.000 với ít nhất 3.800 ca tử vong. Tình hình cũng trở nên tồi tệ hơn ở Mỹ khi New York, California và Oregon đồng thời tuyên bố tình trạng khẩn cấp.

Vàng, một loại tài sản trú ẩn an toàn khác, đã vượt qua 1.700 USD một ounce, mức cao nhất kể từ tháng 12 năm 2012.

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã công bố cắt giảm lãi suất khẩn cấp vào tuần trước để khắc phục những tác động kinh tế từ dịch Covid-19 - đây là động thái đầu tiên kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế dự kiến ​​Fed sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất sau cuộc họp vào tháng 3 trong tuần tới.

(Theo CNBC)

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25155.00 25161.00 25461.00
EUR 26745.00 26852.00 28057.00
GBP 31052.00 31239.00 32222.00
HKD 3181.00 3194.00 3300.00
CHF 27405.00 27515.00 28381.00
JPY 159.98 160.62 168.02
AUD 16385.00 16451.00 16959.00
SGD 18381.00 18455.00 19010.00
THB 669.00 672.00 700.00
CAD 18134.00 18207.00 18750.00
NZD   14961.00 15469.00
KRW   17.80 19.47
DKK   3592.00 3726.00
SEK   2290.00 2379.00
NOK   2277.00 2368.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ