Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: 'Xây dựng và phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ'

Nhàđầutư
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2020 - năm cuối của nhiệm kỳ - có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020 và tạo tiền đề để bước vào giai đoạn xây dựng chiến lược 10 năm tới.
MINH THẮNG
25, Tháng 01, 2020 | 06:00

Nhàđầutư
Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2020 - năm cuối của nhiệm kỳ - có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020 và tạo tiền đề để bước vào giai đoạn xây dựng chiến lược 10 năm tới.

Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) Nguyễn Chí Dũng, trong bối cảnh nền kinh tế thế giới diễn biến khó lường, độ mở của nền kinh tế cao như Việt Nam, cần quán triệt chủ trương, định hướng xây dựng và phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ, tăng cường khả năng thích ứng cũng như khả năng chống chịu trước những biến động từ bên ngoài.

Đồng thời, cần mở rộng và đa dạng hóa các thị trường; giảm dần sự phụ thuộc vào khu vực kinh tế có vốn FDI và phát huy nội lực; phát triển đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, nguồn nhân lực chất lượng cao có tri thức, kỹ năng đáp ứng yêu cầu của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch năm 2020 - năm cuối của nhiệm kỳ - có ý nghĩa quan trọng quyết định đến việc thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm giai đoạn 2016-2020 và tạo tiền đề để bước vào giai đoạn xây dựng chiến lược 10 năm tới.

Mặc dù nền kinh tế đang có đà tăng trưởng tốt, nhưng trên cơ sở phân tích và dự báo bối cảnh tình hình quốc tế cũng như phân tích những thách thức, khó khăn trong nước, Chính phủ đã cân đối, cân nhắc các yếu tố cung cầu, động lực tăng trưởng, lường trước các tác động, nguy cơ rủi ro thị trường thế giới, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh…

nguyen-chi-dung

Bộ trưởng KH&ĐT Nguyễn Chí Dũng. Ảnh: Quang Vinh.

Ngay sau khi Quốc hội thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 tại kỳ họp thứ 8, Chính phủ đã khẩn trương chỉ đạo xây dựng, ban hành các nghị quyết để triển khai thực hiện kết luận của Ban Chấp hành Trung ương và Quốc hội triển khai thực hiện kế hoạch năm 2020.

Đối với vấn đề đầu tư công đang giải ngân chậm, đây là một trong những điểm tối trong bức tranh sáng của nền kinh tế, đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, nhất là đóng góp của vốn đầu tư công trong GDP.

Để giải quyết vấn đề này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết với một số nhiệm vụ giải pháp chủ yếu để đẩy nhanh tiến độ về phân bổ và giải ngân kế hoạch đầu tư công, tập trung vào 5 nhóm giải pháp chính: Tiếp tục rà soát các quy định còn vướng mắc để kịp thời điều chỉnh; khẩn trương giao chi tiết và điều chỉnh các kế hoạch vốn, trong đó kiên quyết điều chỉnh vốn từ các dự án giải ngân chậm sang các dự án có khả năng giải ngân cao hơn;

Tập trung chỉ đạo triển khai công tác giải ngân ở các cấp, các ngành; đổi mới công tác theo dõi đánh giá kế hoạch đầu tư công; tăng cường kỷ luật, kỷ cương nhất là vai trò của người đứng đầu.

Thông tin về các bộ, ngành, địa phương giải ngân chậm vốn đầu tư công đã được công khai trên Cổng thông tin điện tử Bộ KH&ĐT và Bộ Tài chính. Chính phủ đề nghị với các đoàn đại biểu Quốc hội, các đại biểu Quốc hội tăng cường tổ chức giám sát chuyên đề về giải ngân vốn đầu tư công ngay tại địa phương mình, vừa để nâng cao hiệu quả giám sát ngay tại cơ sở, vừa giúp chính quyền địa phương thấy rõ các nguyên nhân và gợi ý đưa ra giải pháp hiệu quả.

Với việc Luật Đầu tư công (sửa đổi) được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/1/2020 cùng với việc thực hiện đồng bộ các giải pháp của Nghị quyết số 94/NQ-CP và việc giám sát của Quốc hội cũng như của các đoàn đại biểu Quốc hội, vấn đề giải ngân vốn đầu tư công từ năm 2020 chắc chắn sẽ có những bước cải thiện đáng kể.

Ngoại tệ Mua tiền mặt Mua chuyển khoản Giá bán
USD 25150.00 25155.00 25475.00
EUR 26606.00 26713.00 27894.00
GBP 30936.00 31123.00 32079.00
HKD 3170.00 3183.00 3285.00
CHF 27180.00 27289.00 28124.00
JPY 158.79 159.43 166.63
AUD 16185.00 16250.300 16742.00
SGD 18268.00 18341.00 18877.00
THB 665.00 668.00 694.00
CAD 18163.00 18236.00 18767.00
NZD   14805.00 15299.00
KRW   17.62 19.25
DKK   3573.00 3704.00
SEK   2288.00 2376.00
NOK   2265.00 2353.00

Nguồn: Agribank

Điều chỉnh kích thước chữ